Trong bối cảnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, đổi mới sáng tạo không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu sống còn đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Nghị quyết 57 của Bộ Chính trị với mục tiêu nâng tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo lên trên 40% vào năm 2030 đang mở ra một không gian chính sách mới nhưng cũng đặt ra không ít thách thức trong triển khai.
Doanh nghiệp phải nâng giá trị gia tăng và hàm lượng R&D
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, ông Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Hội Sản xuất hàng công nghiệp chủ lực TP. Hà Nội cho rằng, tinh thần cốt lõi của Nghị quyết 57 là buộc doanh nghiệp Việt Nam phải thay đổi tư duy phát triển, tập trung vào nâng cao giá trị gia tăng, tăng vốn đầu tư và tăng hàm lượng nghiên cứu và phát triển (R&D) trong sản phẩm.
Theo ông Minh, với mỗi ngành nghề khác nhau, từ sản xuất, bán dẫn đến dệt may, da giày, cách tiếp cận đổi mới sáng tạo sẽ rất khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung là nếu không mạnh dạn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển thì Việt Nam sẽ rất khó thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Ông Nguyễn Đức Minh, Phó Chủ tịch Hội Sản xuất hàng công nghiệp chủ lực TP. Hà Nội. Ảnh: T.H
Thực tế hiện nay cho thấy, phần lớn hàng hóa của Việt Nam vẫn xuất khẩu ở dạng thô, giá trị gia tăng thấp. Trong khi đó, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tạo ra những sản phẩm có giá trị cao hơn ngay trong nước nếu dám đầu tư cho chất xám.
Ông Nguyễn Đức Minh nhấn mạnh, Chính phủ hiện nay đang đi theo hướng kiến tạo, thúc đẩy hàm lượng tri thức trong từng sản phẩm, từng quy trình sản xuất. Đây là một sự thay đổi rất căn bản về tư duy phát triển. Tuy nhiên, để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, vai trò chủ động của doanh nghiệp là yếu tố quyết định.
Từ câu chuyện thực tiễn, ông Nguyễn Đức Minh cũng thẳng thắn chỉ ra một điểm nghẽn lớn của đổi mới sáng tạo tại Việt Nam là người Việt có rất nhiều ý tưởng, nhưng lại thiếu khả năng biến ý tưởng thành sản phẩm và giá trị thực.
"Chúng ta giỏi toán, giỏi văn, nhưng kỹ năng thực hành, kỹ năng làm việc nhóm, khả năng kết nối tri thức đa ngành vẫn còn hạn chế. Muốn tạo ra sản phẩm cuối cùng có giá trị cao thì nhất thiết phải có sự hợp tác đa lĩnh vực, có ngân sách đủ lớn cho quá trình sáng tạo, thay vì chỉ nhìn vào lợi ích ngắn hạn", ông Minh cho hay.
Bên cạnh đó, ông Nguyễn Đức Minh cho rằng, việc kết nối giữa đào tạo và thị trường hiện nay vẫn còn nhiều khoảng trống. Các ngành như công nghệ thực phẩm, dinh dưỡng cho thấy Việt Nam có lợi thế lớn của một quốc gia nhiệt đới.
Tuy nhiên, khi tiếp cận thị trường quốc tế, nhiều sản phẩm vẫn bị kiểm tra rất kỹ về quy trình, tiêu chuẩn, nhất là vấn đề đầu ra chưa sạch, quy trình chưa thực sự đảm bảo. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần có chính sách cụ thể cho từng ngành, từng nhóm sản phẩm, từ sản xuất đến tiêu chuẩn đầu ra, để doanh nghiệp đủ năng lực xuất khẩu và người tiêu dùng được bảo vệ tốt hơn.
Chính quyền phải trở thành “kiến trúc sư” cho đổi mới sáng tạo
Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương về giải pháp tăng tỷ lệ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo theo tinh thần Nghị quyết 57, TS Hà Huy Ngọc, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, Chiến lược Kinh tế địa phương và Lãnh thổ (Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới) cho rằng, mục tiêu 40% doanh nghiệp đổi mới sáng tạo theo Nghị quyết 57 chỉ có thể đạt được khi chính quyền thực sự đồng hành cùng doanh nghiệp một cách chủ động và thực chất.
Theo TS. Hà Huy Ngọc, ngân sách dành cho khoa học và công nghệ hiện nay đã đạt khoảng 3% tổng chi ngân sách, một con số lớn hơn rất nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, vấn đề không chỉ nằm ở quy mô nguồn lực, mà quan trọng hơn là cách tổ chức thực hiện. Nhà nước cần xây dựng các đề án hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo một cách rõ ràng, minh bạch, dễ tiếp cận, còn doanh nghiệp cũng phải chủ động tham gia và thể hiện sự sáng tạo trong quy trình đổi mới của chính mình.
Một điểm nghẽn lớn khác được TS. Hà Huy Ngọc chỉ ra là sự kết nối còn rất yếu giữa nhà trường và doanh nghiệp. Trong thực tế, nhiều đề tài nghiên cứu vẫn nằm trên giấy, khó đi vào thương mại hóa.
Do đó, Nhà nước cần đóng vai trò đầu mối kết nối hai khu vực này, giống như cách chính quyền địa phương thuê tổng công trình sư cho phát triển hạ tầng, thì cũng cần một “kiến trúc sư” cho đổi mới sáng tạo, nghĩa là người có nhiệm vụ đưa kết quả nghiên cứu vào thị trường một cách hiệu quả.

Để tăng tỷ doanh nghiệp có hoạt động đổi mới sáng tạo, Nhà nước cần có cơ chế thuận lợi để hỗ trợ doanh nghiệp về dữ liệu. Ảnh minh hoạ
Ở bình diện rộng hơn, TS. Hà Huy Ngọc cho rằng, Việt Nam đã có những định hướng chính sách quan trọng gồm: Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, Nghị quyết 57 hay các nội dung liên quan được đề cập dự thảo Văn kiện Đại hội XIV. Trong toàn bộ hệ thống các văn bản, định hướng chính sách này, khoa học, công nghệ được xác định là một đột phá chiến lược.
Tuy nhiên, TS. Hà Huy Ngọc nhấn mạnh, khoa học, công nghệ chỉ thực sự phát huy vai trò khi xuất phát từ doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải là hạt nhân của quá trình chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, hướng tới phát triển bền vững.
Trong khi đó, tiến độ thực hiện các chuyển đổi hiện nay giữa các nhóm doanh nghiệp vẫn rất chênh lệch. Các doanh nghiệp lớn làm khá tốt, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm hơn 90% tổng số doanh nghiệp lại chuyển đổi rất chậm. Muốn họ trở thành hạt nhân của quá trình chuyển đổi, Nhà nước phải đóng vai trò kiến tạo, trước hết là trong xây dựng và chia sẻ dữ liệu.
Từ những góc nhìn của doanh nghiệp và chuyên gia có thể thấy, để nâng tỷ lệ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo lên trên 40% không chỉ cần chính sách đúng, mà còn đòi hỏi sự thay đổi mạnh mẽ từ tư duy đầu tư R&D, kết nối đào tạo, thị trường, đến xây dựng hệ sinh thái dữ liệu và khởi nghiệp xanh. Đây chính là chiến lược kép mà Việt Nam cần theo đuổi trong giai đoạn phát triển mới.





