Sự thật về nguồn viện trợ của Mỹ tại Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975

Thông tin được tổng hợp từ cuốn sách 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, NXB Thông Tin, xuất bản năm 1991 của nhà sử học kinh tế Đặng Phong đã làm rõ về vai trò của nguồn viện trợ Mỹ đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 21 năm (từ năm 1954 - 1975). Đó cũng là những tư liệu quý góp phần phản bác quan điểm sai trái về nền kinh tế miền Nam trước và sau 1975.

Đã thành quen thuộc, nhiều năm qua, mỗi dịp người dân cả nước hân hoan hướng tới kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc như Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, ngày toàn thắng 30/4...,lại xuất hiện những tiếng nói lạc lõng rêu rao về sự “hùng mạnh, giàu có của Việt Nam Cộng hòa”. Từ đó xuyên tạc con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, phủ nhận các thành tựu của đất nước và nhân dân Việt Nam đã đạt được trong hàng chục năm qua.

Giai đoạn chiếm đóng, Mỹ muốn gì ở miền Nam Việt Nam?

Theo các con số thống kê chính thức của Mỹ, trong 21 năm (từ năm 1954 - 1975), viện trợ của Mỹ dành cho miền Nam Việt Nam hơn 26 tỷ đôla. Ngoài số tiền viện trợ cho ngụy quân và ngụy quyền, Mỹ đã trực tiếp đưa cả quân đội, các bộ máy quân sự, dân sự vào miền Nam. Nếu tính tất cả các loại chi phí, trong hơn 20 năm đó, Mỹ đã bỏ vào Việt Nam khoảng hơn 160 tỷ đôla. Với những toan tính của người Mỹ sự viện trợ đó đã không giúp ích cho sự phát triển kinh tế của miền Nam việt Nam mà thay vào đó là một nền công nghiệp, thương mại lệch lạc, méo mó.

Trong cuốn sách của mình, Nhà sử học Đặng Phong nêu rõ, trong suốt quá trình chiếm đóng Việt Nam, tư bản Mỹ đã quan tâm đến những nguồn lợi ở Việt Nam: Các tài nguyên, nhất là khoáng sản, các sản phẩm chiến lược, nhất là lúa gạo và cao su, những nguồn cung cấp nhân công, thị trường đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa... Mục Xã luận, tờ New York Times ngày 12/2/1950 viết: “Đông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn. Nơi đó có thể xuất khẩu thiếc, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu và da thuộc”.

Tổng thống Mỹ Eisenhower (nhiệm kỳ 1953-1961) trong diễn văn đọc ngày 4-8-1953 tại Seatle nói: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc và vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không còn thuộc về tay chúng ta nữa”.

Qua những ý kiến của chính người Mỹ nói trên có thể thấy các tài nguyên và sản phẩm của Đông Dương mà cụ thể là Việt Nam đang là những thứ mà người Mỹ cần phải nắm lấy để chi phối thị trường thế giới.

Tờ New York Times số ra ngày 21-10-1962 một lần nữa khẳng định về điều này: “Sự buôn bán và các sản phẩm của Đông Nam Á không phải là cần thiết đối với nền kinh tế Mỹ, nhưng lại là rất quan trọng đối với chúng ta và các đồng minh của chúng ta”.

Viện trợ của Mỹ là để phục vụ người Mỹ

Đầu tư là sự khai thác dài hạn ở trình độ cao. Thế nhưng, trong các dự án phát triển kinh tế của miền Nam Việt Nam, Mỹ luôn đưa ra các dự kiến để khả năng thu hồi vốn đầu tư một cách nhanh chóng. Có thể nêu một thí dụ: Trong Kế hoạch sông Mê Công riêng về thủy điện dự tính xây dựng cơ bản hết 1.300 triệu đôla. Nếu được hoàn thành, mỗi năm sẽ lãi 300 triệu đôla. Khi có điện, chỉ riêng đẩy mạnh khai khoáng hàng năm cũng thu lợi nhuận khoảng 300 triệu đôla nữa. Vì vậy, Mỹ đã “tự nguyện” đóng góp 1 tỷ đôla cho kế hoạch này.

Để nắm độc quyền đầu tư, ngay từ năm 1961 Mỹ đã yêu cầu Ngô Đình Diệm ký bản cam kết ưu đãi đầu tư của Mỹ, gọi là “Hiệp ước thân hữu và liên lạc kinh tế Việt-Mỹ”. Trong Hiệp ước này, Diệm bảo đảm cho tư bản đầu tư của Mỹ được thuận lợi trong mọi ngành kinh tế, về mọi mặt-trong việc mua đất đai, nguyên liệu, sử dụng các phương tiện công ích, thuê nhân công, chuyển lãi hàng năm về nước, có hiệp đồng tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra, hứa sẽ không quốc hữu hóa trong một thời gian dài...

Trong thời gian chiến tranh nếu tính theo đầu người thì mỗi người dân Việt Nam mỗi năm tiêu xài gần hai ngàn đôla của Mỹ. Nhưng theo chính sự tính toán của các cơ quan nghiên cứu Mỹ, thì thu nhập thực tế của mỗi người dân Việt Nam chỉ vào khoảng trên dưới một trăm đôla. Nói đúng ra, trong số hàng trăm tỷ đôla hàng hóa mà Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam, chỉ có một phần rất nhỏ là những thứ hữu ích cho con người. Còn phần lớn là những hàng hóa để phục vụ chiến tranh.

Hàng năm, Chính phủ Mỹ định trước một số tiền, tính bằng đôla, dành cho các khoản viện trợ thương mại hóa. Mỹ không cấp thẳng số đôla đó cho chính quyền ngụy, mà chỉ thông báo cho ngụy biết là được viện trợ số tiền kể trên để nhập cảng các thứ hàng hóa cần thiết. Nơi xét duyệt nhập cảng các đơn này không phải là Chính phủ ngụy, mà là phái bộ viện trợ Mỹ.

Căn cứ trên những sự tính toán lợi và hại theo quan điểm của Mỹ, cơ quan này hoặc bác bỏ, hoặc chấp nhận, hoặc sửa đổi, hoặc thêm bớt một số điểm cụ thể trong các đơn, rồi cấp những giấy phép nhập cảng. Người được cấp giấy phép nhập cảng đến nộp tiền cho ủy ban nhập cảng, thuộc Ngân hàng quốc gia. Tiền nộp vào là tiền Sài Gòn. Tỷ giá hối đoái trong viện trợ thương mại hóa là tỷ giá do Mỹ quy định, thường thấp bằng một nửa hoặc 2/3 tỷ giá hối đoái thực tế trên thị trường.

Từ đó cho thấy, Mỹ vẫn thực hiện được mục đích viện là trợ cấp cho ngụy quyền. Nhưng đôla Mỹ không lọt ra khỏi nước Mỹ. Hàng hóa của các công ty Mỹ có thêm một cơ hội để tiêu thụ. Theo con đường viện trợ, nó lọt thẳng vào thị trường miền Nam một cách trơn tru, dễ dàng, không bị hàng rào thuế quan ngăn cản, có thể tính giá rất cao mà không bị hàng hóa các nước khác cạnh tranh... Hàng của Mỹ đưa vào miền Nam thường đắt gấp rưỡi hoặc gấp đôi (tùy loại) hàng của các nước khác. Như vậy, phần lớn những khoản gọi là chi phí cho Việt Nam, thực ra, lại là chi phí cho nước Mỹ. Viện trợ thực ra lại là sự trợ cấp cho nền kinh tế Mỹ.

Nền công nghiệp, thương mại lệch lạc của miền Nam Việt Nam

Viện trợ của Mỹ là để phục vụ cho chiến tranh. Điều đó dẫn đến hơn 1 triệu quân lính có “công ăn việc làm”, có thu nhập, nhưng lại là những không sản xuất, không sáng tạo ra của cải gì cả. Khoảng 4 đến 5 triệu người thân như: Vợ, con, cha, mẹ của hơn một triệu quân lính này cũng được hưởng một phần thu nhập đó. Trong một phần đất nước chưa đầy 20 triệu dân, mà nền sản xuất còn chưa đủ thức ăn và đồ dùng tối thiểu cho số dân đó, lại có thể tách ra được hơn một triệu người lao động chính cùng 4-5 triệu người trong gia đình họ chỉ sống nhờ vào nghề cầm súng, một nghề phi sản xuất nhất trong những nghề phi sản xuất. Đó là “kỷ lục” trên thế giới, là sự nghịch lý.

Hàng năm có một khối lượng rất lớn đồ phế thải chiến tranh phần lớn là kim loại được đem bán cho các nhà thầu và nhà buôn đã tạo nên một nghịch cảnh trong nền công nghiệp. Ở thời kỳ đó, số lượng khai thác quặng sắt ở miền Nam là không đáng kể, nhưng cũng có 3 nhà máy cán sắt khá lớn. Người ta ước tính số sắt thép phế thải này tới vài triệu tấn. Mỗi năm, nhờ phế thải chiến tranh, miền Nam nấu lại được từ 5 đến 6 vạn tấn thép.

Trong cuộc chiến tranh ở miền Nam, đạn dược đã được tiêu thụ nhiều hơn ở bất cứ nơi nào. Với mức tiêu thụ đó, ngành chế biến đồng ở miền Nam cũng có cả một kho nguyên liệu dồi dào, mỗi năm sản xuất được vài ngàn tấm dây đồng và đồng lá. Hơn hai chục vạn tấn dây thép gai cũng là một kho tài nguyên phong phú. Có những năm số sắt thép và đồng phế thải của chiến tranh quá nhiều, ngụy quyền còn đem “xuất cảng” để lấy tiền. Riêng năm 1972, đã xuất cảng tới 18.144 tấn gang, sắt, thép nát và 3.877 tấn đồng nát. Riêng tiền xuất cảng sắt thép vụn đã chiếm 11% tổng số thu về xuất khẩu năm 1972 và 13,5% tổng số thu về xuất khẩu năm 1973.

Trong viện trợ quân sự, ngoài vũ khí và dụng cụ quân sự, còn có nhiều thứ vật dụng thông thường, không chỉ dùng cho chiến tranh, mà có thể dùng trong đời sống hàng ngày: Xăng, dầu, xe cộ và phụ tùng, quần áo tủ lạnh, quạt điện, máy điều hòa nhiệt độ, các loại vật liệu xây dựng... Những thứ này được Mỹ cung cấp khá rộng rãi, thường là vượt xa mức tiêu dùng thực tế của ngụy. Số sản phẩm dư thừa là cơ sở vật chất để cho các chợ trời và các sạp hàng đồ cũ ở miền Nam. Một dân biểu Sài Gòn nhận xét: “Ở miền Nam này, mỗi người lính cũng là một nhà kinh tế hay một nhà kinh doanh”.

Đến năm 1972 Mỹ-ngụy mở rất rộng diện cấp thẻ mua hàng “quân tiếp vụ”. Số thẻ cấp thêm như sau: 250.000 thẻ cho cựu binh, 108.540 thẻ cho phế binh, 734.736 thẻ cho cô nhi, 184.930 thẻ cho vợ góa của lính, tổng cộng là: 1.278.206 (Tài liệu của Cục Địch vận, Bộ Quốc phòng). Nếu cộng với số thẻ mua hàng của hơn một triệu lính tại ngũ, thì có tất cả hơn 2 triệu cuốn sổ mua hàng “quân tiếp vụ”. Rút cuộc, 2 triệu tấm thẻ mua hàng này đã tạo ra một nguồn sống bổ sung cho vài triệu con người phi sản xuất, đồng thời, cũng tạo ra cho thị trường miền Nam hơn 2 triệu người cung cấp hàng hóa.

Thông qua hệ thống chằng chịt các loại thuế, chính quyền bản địa đã thu hồi được giá bán hàng viện trợ, không những bằng mà nhiều khi còn lớn hơn so với giá mua tính theo hối suất thực tế. Có hàng trăm mức thuế khác nhau, thì cũng có hàng trăm sự phân biệt đối xử khác nhau. Mục đích là để bảo vệ cho hàng Mỹ, dù bán giá cao hơn nhiều so với hàng các nước khác, vẫn chiếm địa vị độc tôn trên thị trường miền Nam (đặc biệt là đối với những loại hàng mà Mỹ đang thừa và đang cần tiêu thụ gấp).

Chỉ có năm 1968, hàng Mỹ nhập ít hơn hàng Nhật. Còn trong tất cả các năm, hàng Mỹ vẫn chiếm phần tuyệt đối lớn. Nhưng phần lớn nhất của hàng Mỹ lại là những thứ khó phân biệt nguồn gốc, và ta ít thấy nhãn hiệu Mỹ khi tiêu dùng như: Bông, bột ngô, bột mỳ, bột sữa, dầu thảo mộc, hóa chất các loại, chất dẻo, sắt thép và gang... Hàng Mỹ đã lan tràn khắp thị trường một cách thầm kín và thấm vào hầu hết tất cả mọi thứ của cải của xã hội miền Nam. Cũng chính nó đã gây ra nhiều sự đảo lộn nhất, bóp chết hẳn nghề trồng bông và trồng dâu nuôi tằm; bóp gần chết nghề làm đường mía, nghề đan lát và nhiều nghề thủ công khác.

Trong năm 2021, sản xuất công nghiệp tăng 4,82%, kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 668,5 tỉ USD.
Trong năm 2021, sản xuất công nghiệp của nước ta tăng 4,82%, kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 668,5 tỉ USD.

Như vậy có thể thấy những toan tính của người Mỹ rút cuộc đã khiến người tiêu dùng trên thị trường miền Nam tê liệt tính năng động và ý thức tự chủ; nền công nghiệp và thương mại lệch lac, méo mó.

Chỉ đến khi đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng nền công nghiệp, thương mại của miền Nam đã hòa nhịp cùng miền Bắc, từng bước thay đổi để có được thế và lực như ngày nay.

Trong năm 2021, sản xuất công nghiệp tăng 4,82%, kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 668,5 tỉ USD, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Sự phát triển của ngành công nghiệp, thương mại cả nước nói chung và miền Nam nói riêng còn được thể hiện bằng việc đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, tình hình chính trị ổn định. Trên đà thắng lợi đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang không ngừng nỗ lực, đưa ra nhiều kế sách để phấn đấu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Đăng Khoa
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bài viết cùng chủ đề: Trương Thanh Hoài

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Bài 3: Xây dựng thương hiệu: Kinh nghiệm của các nước và bài học cho Việt Nam

Bài 3: Xây dựng thương hiệu: Kinh nghiệm của các nước và bài học cho Việt Nam

Cà phê Colombia, THAI’S RICE;… là những thương hiệu được nhiều người tiêu dùng trên thế giới biến đến. Kinh nghiệm của các nước cũng là bài học cho Việt Nam.
Bài 2: Bộ Công Thương nỗ lực "xây nền chính sách" cho phát triển cụm công nghiệp

Bài 2: Bộ Công Thương nỗ lực "xây nền chính sách" cho phát triển cụm công nghiệp

Trên cơ sở chủ trương, Nghị quyết của Đảng, là đơn vị trực tiếp quản lý, Bộ Công Thương kịp thời điều chỉnh, ban hành chính sách cho phát triển cụm công nghiệp.
Cục QLTT Thanh Hóa phát huy vai trò của cán bộ đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Cục QLTT Thanh Hóa phát huy vai trò của cán bộ đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Phát huy vai trò của cán bộ đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã được Cục QLTT tỉnh Thanh Hóa triển khai có hiệu quả trong thời gian qua.
Bài 1: Phát triển cụm công nghiệp: Từ chủ trương đúng đắn của Đảng đến quyết liệt trong triển khai thực hiện

Bài 1: Phát triển cụm công nghiệp: Từ chủ trương đúng đắn của Đảng đến quyết liệt trong triển khai thực hiện

Từ Nghị quyết của Đảng đến sự quyết liệt triển khai trong thực tế, cụm công nghiệp đã và đang góp sức vào công cuộc công nghiệp hóa nông thôn.
Kỳ 3: Hành trình đưa sản phẩm Việt ra thế giới

Kỳ 3: Hành trình đưa sản phẩm Việt ra thế giới

Từ doanh thu tăng trưởng vượt mong đợi, doanh nghiệp cho rằng, sàn thương mại điện tử đóng vai trò quan trọng trong hành trình đưa sản phẩm Việt ra quốc tế.

Tin cùng chuyên mục

Bài 2 - Tăng năng suất lao động: Yếu tố quan trọng để phát triển bền vững

Bài 2 - Tăng năng suất lao động: Yếu tố quan trọng để phát triển bền vững

Việt Nam từng có tốc độ tăng GDP nhanh nhất thế giới, để duy trì kỳ tích này, chìa khóa cần nắm chắc là tăng năng suất lao động.
Bài 2: Xây dựng thương hiệu: Nút thắt do đâu?

Bài 2: Xây dựng thương hiệu: Nút thắt do đâu?

Xây dựng thương hiệu nông sản có 3 cấp độ gồm: doanh nghiệp; ngành hàng/địa phương; quốc gia. Tuy nhiên, ở cả 3 cấp độ này đều đang rất vướng.
Bài 1: Khoảng lặng của hạt gạo Việt

Bài 1: Khoảng lặng của hạt gạo Việt

Dù Việt Nam đang là quốc gia xuất khẩu nằm trong Top 3 về sản lượng, nhưng tên tuổi hay sự nhận diện thương hiệu gạo Việt vẫn còn khá mờ nhạt.
Bài 1: Năng suất lao động của Việt Nam đứng ở đâu?

Bài 1: Năng suất lao động của Việt Nam đứng ở đâu?

Nâng cao năng suất lao động là con đường ngắn nhất để đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững với tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Kỳ 2: "Giai đoạn vàng" để xuất khẩu trực tuyến tăng tốc

Kỳ 2: "Giai đoạn vàng" để xuất khẩu trực tuyến tăng tốc

Xuất khẩu trực tuyến-thương mại điện tử xuyên biên giới đang mở ra cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường toàn cầu, là thời cơ 'vàng' để hàng Việt vươn xa.
Kỳ 1: Bệ đỡ cho hàng Việt vươn xa toàn cầu

Kỳ 1: Bệ đỡ cho hàng Việt vươn xa toàn cầu

Nhờ tận dụng thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, từ một ngành non trẻ, thương mại điện tử đã trở thành 'trợ thủ' dẫn dắt nền kinh tế số Việt Nam.
Nhiều đóng góp có giá trị vào Đề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới

Nhiều đóng góp có giá trị vào Đề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới

Phiên họp thứ hai Ban Chỉ đạo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN trong 40 năm qua ở Việt Nam đã diễn ra.
Longform | Bài 3: Để doanh nghiệp dân tộc có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng

Longform | Bài 3: Để doanh nghiệp dân tộc có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng

Làm sao để phát triển doanh nghiệp dân tộc, có quy mô lớn, đóng vai trò dẫn dắt một số ngành trọng yếu và có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu?
Bài 4: Tạo bệ phóng cho khoa học và công nghệ tăng tốc

Bài 4: Tạo bệ phóng cho khoa học và công nghệ tăng tốc

Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực cho phát triển kinh tế, nhiều ý kiến nhận định, cần tiếp tục khơi thông những vướng mắc về cơ chế, chính sách.
Longform |Bài 2: Doanh nghiệp “chung vai” chia sẻ khó khăn cùng đất nước

Longform |Bài 2: Doanh nghiệp “chung vai” chia sẻ khó khăn cùng đất nước

Không chỉ lớn mạnh về lượng và chất, những năm qua, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã khẳng định vai trò trong việc “chung vai” chia sẻ khó khăn cùng đất nước.
Bài 3: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong cung cấp điện, xây dựng cơ chế giá điện

Bài 3: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong cung cấp điện, xây dựng cơ chế giá điện

Đảm bảo cung ứng điện, giữ vững an ninh năng lượng quốc gia đóng vai trò quyết định thành công của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Bài 3: Hướng đến sản xuất thông minh, làm chủ công nghệ 4.0

Bài 3: Hướng đến sản xuất thông minh, làm chủ công nghệ 4.0

Việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ 4.0 đã được ngành Công Thương triển khai một cách mạnh mẽ, trở thành giải pháp cấp bách, có tính sống còn.
Bài 2: Minh bạch, kịp thời - không để xảy ra khoảng trống thông tin

Bài 2: Minh bạch, kịp thời - không để xảy ra khoảng trống thông tin

Dự báo đúng nên ngay từ đầu năm 2023, Bộ Công Thương đã chỉ đạo EVN, các cục, vụ kịp thời cung cấp thông tin đến người dân và xã hội về tình hình sản xuất điện.
Bài 2: Gieo nỗ lực, gặt thành công trong nghiên cứu khoa học

Bài 2: Gieo nỗ lực, gặt thành công trong nghiên cứu khoa học

Với nỗ lực cống hiến không ngừng nghỉ của các nhà khoa học, đơn vị nghiên cứu, hoạt động khoa học và công nghệ ngành Công Thương đang cho những “trái ngọt”.
Bài 1: Bài học từ câu chuyện thiếu điện mùa khô 2023, giá điện và các luận điệu xuyên tạc, kích động

Bài 1: Bài học từ câu chuyện thiếu điện mùa khô 2023, giá điện và các luận điệu xuyên tạc, kích động

Việc giữ nước ở các hồ thủy điện để đảm bảo cung ứng điện cho mùa khô năm 2024 là bài học được rút ra từ điều hành cung ứng điện năm 2023.
Bài 1: Những quyết sách tạo động lực phát triển khoa học và công nghệ

Bài 1: Những quyết sách tạo động lực phát triển khoa học và công nghệ

Phát triển khoa học và công nghệ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đòi hỏi tiên quyết, tạo nền tảng thúc đẩy sự phát triển của ngành Công Thương.
Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương quán triệt các chuyên đề thông tin

Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương quán triệt các chuyên đề thông tin

Ngày 10/4/2024, Đảng uỷ Khối các cơ quan Trung ương đã tổ chức hội nghị thông tin chuyên đề quý I/2024 cho các đảng bộ trực thuộc Đảng uỷ Khối.
Đường dây 500kV mạch 3 – đường Trường Sơn công nghiệp thời bình - Bài 5: Con đường đi giữa lòng dân

Đường dây 500kV mạch 3 – đường Trường Sơn công nghiệp thời bình - Bài 5: Con đường đi giữa lòng dân

“Dễ trăm lần không dân cũng chịu/Khó vạn lần dân liệu cũng xong” – chân lý ấy một lần nữa toả sáng trên con đường năng lượng chiến lược quốc gia.
Chuyện về hai tấm ảnh và cuốn sách của Tổng Bí thư

Chuyện về hai tấm ảnh và cuốn sách của Tổng Bí thư

Cuốn sách của Tổng bí thư là công trình có tầm khái quát cao về lý luận, tổng kết thực tiễn sâu sắc về những phát triển sáng tạo riêng, đặc sắc của Đảng ta.
Trung thành với lý tưởng cách mạng là con đường duy nhất của đảng viên

Trung thành với lý tưởng cách mạng là con đường duy nhất của đảng viên

Đảng ta luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Xem thêm
Mobile VerionPhiên bản di động