Sự thật về nguồn viện trợ của Mỹ tại Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975

Thông tin được tổng hợp từ cuốn sách 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, NXB Thông Tin, xuất bản năm 1991 của nhà sử học kinh tế Đặng Phong đã làm rõ về vai trò của nguồn viện trợ Mỹ đối với nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 21 năm (từ năm 1954 - 1975). Đó cũng là những tư liệu quý góp phần phản bác quan điểm sai trái về nền kinh tế miền Nam trước và sau 1975.

Đã thành quen thuộc, nhiều năm qua, mỗi dịp người dân cả nước hân hoan hướng tới kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc như Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, ngày toàn thắng 30/4...,lại xuất hiện những tiếng nói lạc lõng rêu rao về sự “hùng mạnh, giàu có của Việt Nam Cộng hòa”. Từ đó xuyên tạc con đường mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, phủ nhận các thành tựu của đất nước và nhân dân Việt Nam đã đạt được trong hàng chục năm qua.

Giai đoạn chiếm đóng, Mỹ muốn gì ở miền Nam Việt Nam?

Theo các con số thống kê chính thức của Mỹ, trong 21 năm (từ năm 1954 - 1975), viện trợ của Mỹ dành cho miền Nam Việt Nam hơn 26 tỷ đôla. Ngoài số tiền viện trợ cho ngụy quân và ngụy quyền, Mỹ đã trực tiếp đưa cả quân đội, các bộ máy quân sự, dân sự vào miền Nam. Nếu tính tất cả các loại chi phí, trong hơn 20 năm đó, Mỹ đã bỏ vào Việt Nam khoảng hơn 160 tỷ đôla. Với những toan tính của người Mỹ sự viện trợ đó đã không giúp ích cho sự phát triển kinh tế của miền Nam việt Nam mà thay vào đó là một nền công nghiệp, thương mại lệch lạc, méo mó.

Trong cuốn sách của mình, Nhà sử học Đặng Phong nêu rõ, trong suốt quá trình chiếm đóng Việt Nam, tư bản Mỹ đã quan tâm đến những nguồn lợi ở Việt Nam: Các tài nguyên, nhất là khoáng sản, các sản phẩm chiến lược, nhất là lúa gạo và cao su, những nguồn cung cấp nhân công, thị trường đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa... Mục Xã luận, tờ New York Times ngày 12/2/1950 viết: “Đông Dương là một miếng mồi đáng cho chúng ta đánh một ván bài lớn. Nơi đó có thể xuất khẩu thiếc, than đá, gỗ, gạo, cao su, dừa, hạt tiêu và da thuộc”.

Tổng thống Mỹ Eisenhower (nhiệm kỳ 1953-1961) trong diễn văn đọc ngày 4-8-1953 tại Seatle nói: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc và vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không còn thuộc về tay chúng ta nữa”.

Qua những ý kiến của chính người Mỹ nói trên có thể thấy các tài nguyên và sản phẩm của Đông Dương mà cụ thể là Việt Nam đang là những thứ mà người Mỹ cần phải nắm lấy để chi phối thị trường thế giới.

Tờ New York Times số ra ngày 21-10-1962 một lần nữa khẳng định về điều này: “Sự buôn bán và các sản phẩm của Đông Nam Á không phải là cần thiết đối với nền kinh tế Mỹ, nhưng lại là rất quan trọng đối với chúng ta và các đồng minh của chúng ta”.

Viện trợ của Mỹ là để phục vụ người Mỹ

Đầu tư là sự khai thác dài hạn ở trình độ cao. Thế nhưng, trong các dự án phát triển kinh tế của miền Nam Việt Nam, Mỹ luôn đưa ra các dự kiến để khả năng thu hồi vốn đầu tư một cách nhanh chóng. Có thể nêu một thí dụ: Trong Kế hoạch sông Mê Công riêng về thủy điện dự tính xây dựng cơ bản hết 1.300 triệu đôla. Nếu được hoàn thành, mỗi năm sẽ lãi 300 triệu đôla. Khi có điện, chỉ riêng đẩy mạnh khai khoáng hàng năm cũng thu lợi nhuận khoảng 300 triệu đôla nữa. Vì vậy, Mỹ đã “tự nguyện” đóng góp 1 tỷ đôla cho kế hoạch này.

Để nắm độc quyền đầu tư, ngay từ năm 1961 Mỹ đã yêu cầu Ngô Đình Diệm ký bản cam kết ưu đãi đầu tư của Mỹ, gọi là “Hiệp ước thân hữu và liên lạc kinh tế Việt-Mỹ”. Trong Hiệp ước này, Diệm bảo đảm cho tư bản đầu tư của Mỹ được thuận lợi trong mọi ngành kinh tế, về mọi mặt-trong việc mua đất đai, nguyên liệu, sử dụng các phương tiện công ích, thuê nhân công, chuyển lãi hàng năm về nước, có hiệp đồng tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra, hứa sẽ không quốc hữu hóa trong một thời gian dài...

Trong thời gian chiến tranh nếu tính theo đầu người thì mỗi người dân Việt Nam mỗi năm tiêu xài gần hai ngàn đôla của Mỹ. Nhưng theo chính sự tính toán của các cơ quan nghiên cứu Mỹ, thì thu nhập thực tế của mỗi người dân Việt Nam chỉ vào khoảng trên dưới một trăm đôla. Nói đúng ra, trong số hàng trăm tỷ đôla hàng hóa mà Mỹ đổ vào miền Nam Việt Nam, chỉ có một phần rất nhỏ là những thứ hữu ích cho con người. Còn phần lớn là những hàng hóa để phục vụ chiến tranh.

Hàng năm, Chính phủ Mỹ định trước một số tiền, tính bằng đôla, dành cho các khoản viện trợ thương mại hóa. Mỹ không cấp thẳng số đôla đó cho chính quyền ngụy, mà chỉ thông báo cho ngụy biết là được viện trợ số tiền kể trên để nhập cảng các thứ hàng hóa cần thiết. Nơi xét duyệt nhập cảng các đơn này không phải là Chính phủ ngụy, mà là phái bộ viện trợ Mỹ.

Căn cứ trên những sự tính toán lợi và hại theo quan điểm của Mỹ, cơ quan này hoặc bác bỏ, hoặc chấp nhận, hoặc sửa đổi, hoặc thêm bớt một số điểm cụ thể trong các đơn, rồi cấp những giấy phép nhập cảng. Người được cấp giấy phép nhập cảng đến nộp tiền cho ủy ban nhập cảng, thuộc Ngân hàng quốc gia. Tiền nộp vào là tiền Sài Gòn. Tỷ giá hối đoái trong viện trợ thương mại hóa là tỷ giá do Mỹ quy định, thường thấp bằng một nửa hoặc 2/3 tỷ giá hối đoái thực tế trên thị trường.

Từ đó cho thấy, Mỹ vẫn thực hiện được mục đích viện là trợ cấp cho ngụy quyền. Nhưng đôla Mỹ không lọt ra khỏi nước Mỹ. Hàng hóa của các công ty Mỹ có thêm một cơ hội để tiêu thụ. Theo con đường viện trợ, nó lọt thẳng vào thị trường miền Nam một cách trơn tru, dễ dàng, không bị hàng rào thuế quan ngăn cản, có thể tính giá rất cao mà không bị hàng hóa các nước khác cạnh tranh... Hàng của Mỹ đưa vào miền Nam thường đắt gấp rưỡi hoặc gấp đôi (tùy loại) hàng của các nước khác. Như vậy, phần lớn những khoản gọi là chi phí cho Việt Nam, thực ra, lại là chi phí cho nước Mỹ. Viện trợ thực ra lại là sự trợ cấp cho nền kinh tế Mỹ.

Nền công nghiệp, thương mại lệch lạc của miền Nam Việt Nam

Viện trợ của Mỹ là để phục vụ cho chiến tranh. Điều đó dẫn đến hơn 1 triệu quân lính có “công ăn việc làm”, có thu nhập, nhưng lại là những không sản xuất, không sáng tạo ra của cải gì cả. Khoảng 4 đến 5 triệu người thân như: Vợ, con, cha, mẹ của hơn một triệu quân lính này cũng được hưởng một phần thu nhập đó. Trong một phần đất nước chưa đầy 20 triệu dân, mà nền sản xuất còn chưa đủ thức ăn và đồ dùng tối thiểu cho số dân đó, lại có thể tách ra được hơn một triệu người lao động chính cùng 4-5 triệu người trong gia đình họ chỉ sống nhờ vào nghề cầm súng, một nghề phi sản xuất nhất trong những nghề phi sản xuất. Đó là “kỷ lục” trên thế giới, là sự nghịch lý.

Hàng năm có một khối lượng rất lớn đồ phế thải chiến tranh phần lớn là kim loại được đem bán cho các nhà thầu và nhà buôn đã tạo nên một nghịch cảnh trong nền công nghiệp. Ở thời kỳ đó, số lượng khai thác quặng sắt ở miền Nam là không đáng kể, nhưng cũng có 3 nhà máy cán sắt khá lớn. Người ta ước tính số sắt thép phế thải này tới vài triệu tấn. Mỗi năm, nhờ phế thải chiến tranh, miền Nam nấu lại được từ 5 đến 6 vạn tấn thép.

Trong cuộc chiến tranh ở miền Nam, đạn dược đã được tiêu thụ nhiều hơn ở bất cứ nơi nào. Với mức tiêu thụ đó, ngành chế biến đồng ở miền Nam cũng có cả một kho nguyên liệu dồi dào, mỗi năm sản xuất được vài ngàn tấm dây đồng và đồng lá. Hơn hai chục vạn tấn dây thép gai cũng là một kho tài nguyên phong phú. Có những năm số sắt thép và đồng phế thải của chiến tranh quá nhiều, ngụy quyền còn đem “xuất cảng” để lấy tiền. Riêng năm 1972, đã xuất cảng tới 18.144 tấn gang, sắt, thép nát và 3.877 tấn đồng nát. Riêng tiền xuất cảng sắt thép vụn đã chiếm 11% tổng số thu về xuất khẩu năm 1972 và 13,5% tổng số thu về xuất khẩu năm 1973.

Trong viện trợ quân sự, ngoài vũ khí và dụng cụ quân sự, còn có nhiều thứ vật dụng thông thường, không chỉ dùng cho chiến tranh, mà có thể dùng trong đời sống hàng ngày: Xăng, dầu, xe cộ và phụ tùng, quần áo tủ lạnh, quạt điện, máy điều hòa nhiệt độ, các loại vật liệu xây dựng... Những thứ này được Mỹ cung cấp khá rộng rãi, thường là vượt xa mức tiêu dùng thực tế của ngụy. Số sản phẩm dư thừa là cơ sở vật chất để cho các chợ trời và các sạp hàng đồ cũ ở miền Nam. Một dân biểu Sài Gòn nhận xét: “Ở miền Nam này, mỗi người lính cũng là một nhà kinh tế hay một nhà kinh doanh”.

Đến năm 1972 Mỹ-ngụy mở rất rộng diện cấp thẻ mua hàng “quân tiếp vụ”. Số thẻ cấp thêm như sau: 250.000 thẻ cho cựu binh, 108.540 thẻ cho phế binh, 734.736 thẻ cho cô nhi, 184.930 thẻ cho vợ góa của lính, tổng cộng là: 1.278.206 (Tài liệu của Cục Địch vận, Bộ Quốc phòng). Nếu cộng với số thẻ mua hàng của hơn một triệu lính tại ngũ, thì có tất cả hơn 2 triệu cuốn sổ mua hàng “quân tiếp vụ”. Rút cuộc, 2 triệu tấm thẻ mua hàng này đã tạo ra một nguồn sống bổ sung cho vài triệu con người phi sản xuất, đồng thời, cũng tạo ra cho thị trường miền Nam hơn 2 triệu người cung cấp hàng hóa.

Thông qua hệ thống chằng chịt các loại thuế, chính quyền bản địa đã thu hồi được giá bán hàng viện trợ, không những bằng mà nhiều khi còn lớn hơn so với giá mua tính theo hối suất thực tế. Có hàng trăm mức thuế khác nhau, thì cũng có hàng trăm sự phân biệt đối xử khác nhau. Mục đích là để bảo vệ cho hàng Mỹ, dù bán giá cao hơn nhiều so với hàng các nước khác, vẫn chiếm địa vị độc tôn trên thị trường miền Nam (đặc biệt là đối với những loại hàng mà Mỹ đang thừa và đang cần tiêu thụ gấp).

Chỉ có năm 1968, hàng Mỹ nhập ít hơn hàng Nhật. Còn trong tất cả các năm, hàng Mỹ vẫn chiếm phần tuyệt đối lớn. Nhưng phần lớn nhất của hàng Mỹ lại là những thứ khó phân biệt nguồn gốc, và ta ít thấy nhãn hiệu Mỹ khi tiêu dùng như: Bông, bột ngô, bột mỳ, bột sữa, dầu thảo mộc, hóa chất các loại, chất dẻo, sắt thép và gang... Hàng Mỹ đã lan tràn khắp thị trường một cách thầm kín và thấm vào hầu hết tất cả mọi thứ của cải của xã hội miền Nam. Cũng chính nó đã gây ra nhiều sự đảo lộn nhất, bóp chết hẳn nghề trồng bông và trồng dâu nuôi tằm; bóp gần chết nghề làm đường mía, nghề đan lát và nhiều nghề thủ công khác.

Trong năm 2021, sản xuất công nghiệp tăng 4,82%, kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 668,5 tỉ USD.
Trong năm 2021, sản xuất công nghiệp của nước ta tăng 4,82%, kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 668,5 tỉ USD.

Như vậy có thể thấy những toan tính của người Mỹ rút cuộc đã khiến người tiêu dùng trên thị trường miền Nam tê liệt tính năng động và ý thức tự chủ; nền công nghiệp và thương mại lệch lac, méo mó.

Chỉ đến khi đất nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng nền công nghiệp, thương mại của miền Nam đã hòa nhịp cùng miền Bắc, từng bước thay đổi để có được thế và lực như ngày nay.

Trong năm 2021, sản xuất công nghiệp tăng 4,82%, kim ngạch xuất nhập khẩu vượt mốc 668,5 tỉ USD, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Sự phát triển của ngành công nghiệp, thương mại cả nước nói chung và miền Nam nói riêng còn được thể hiện bằng việc đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, tình hình chính trị ổn định. Trên đà thắng lợi đó, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang không ngừng nỗ lực, đưa ra nhiều kế sách để phấn đấu đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Đăng Khoa
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Lật tẩy chiêu bài bịa đặt từ

Lật tẩy chiêu bài bịa đặt từ 'cờ vàng 3 sọc đỏ' của tổ chức khủng bố Việt Tân

Tìm đủ mọi cách để bịa đặt, xuyên tạc từ hình ảnh “cờ vàng 3 sọc đỏ”, Việt Tân ngày càng điên cuồng tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Việt Tân lại ‘ếch ngồi đáy giếng’ xuyên tạc về nhập khẩu điện

Việt Tân lại ‘ếch ngồi đáy giếng’ xuyên tạc về nhập khẩu điện

Mới đây, tổ chức khủng bố Việt Tân đã “ếch ngồi đáy giếng”, đưa ra thông tin xuyên tạc về nhập khẩu điện nhằm mục đích xấu, cố tình gây hiểu lầm trong dư luận.
Chuyển đổi số với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Chuyển đổi số với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay được đặt trong bối cảnh thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị và chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ.
Vùng 3 Hải quân bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo

Vùng 3 Hải quân bảo vệ vững chắc chủ quyền biển đảo

Sáng 7/11, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành kiểm tra, nắm bắt tình hình hoạt động công tác đảng, công tác chính trị tại Vùng 3 Hải quân.
Tinh gọn bộ máy: Không chờ hoàn chỉnh rồi mới hoàn thiện

Tinh gọn bộ máy: Không chờ hoàn chỉnh rồi mới hoàn thiện

Để đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình, chúng ta phải khẩn trương thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị.

Tin cùng chuyên mục

Thắng

Thắng 'giặc nội xâm' để bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Đất nước 'chuyển mình', bước vào kỷ nguyên mới, cần chiến thắng được 'giặc nội xâm' – lãng phí là nhiệm vụ cấp bách được Tổng Bí thư Tô Lâm quan tâm sâu sắc.
Không thể phủ nhận giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga

Không thể phủ nhận giá trị vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga cùng với sự ra đời của nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới được xem là sự kiện lịch sử vĩ đại nhất của thế kỷ XX.
Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc: Kỳ 3: Khát vọng hùng cường, thịnh vượng

Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc: Kỳ 3: Khát vọng hùng cường, thịnh vượng

Đổi mới sáng tạo được xem là con đường để nhanh chóng tận dụng được sức mạnh của khoa học – công nghệ 4.0 rút ngắn khoảng cách đi tới phồn vinh, hạnh phúc.
Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc: Kỳ 2: Khai mở dư địa tiềm năng

Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc: Kỳ 2: Khai mở dư địa tiềm năng

Những điển hình cách làm và hiệu quả đối với các doanh nghiệp chính là khai mở dư địa tiềm năng, hiện thực hóa khát vọng đi tới phồn vinh, hạnh phúc.
“Đúng - Trúng - Hay” trong sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ EVNICT - Bài 5: Diễn đàn dân chủ

“Đúng - Trúng - Hay” trong sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ EVNICT - Bài 5: Diễn đàn dân chủ

Không chi sinh hoạt nghiêm túc, các chi bộ trong Đảng bộ EVNICT còn có nhiều sáng kiến nâng cao chất lượng sinh hoạt thông qua các ý kiến dân chủ.
Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc

Hiện thực hóa khát vọng vươn mình đi tới phồn vinh, hạnh phúc

Đổi mới sáng tạo đi cùng các đột phá chiến lược là chủ trương lớn của Đảng ta, con đường ngắn nhất đưa Việt Nam tới phồn vinh, hạnh phúc.
“Đúng - Trúng - Hay” trong sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ EVNICT - Bài 4: Chi bộ tiên phong

“Đúng - Trúng - Hay” trong sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ EVNICT - Bài 4: Chi bộ tiên phong

Chi bộ Phòng Triển khai dịch vụ thuộc Đảng bộ EVNICT đã tổ chức nhiều buổi sinh hoạt chuyên đề thực tế ý nghĩa, thu hút 100% đảng viên tham dự.

''Đúng - Trúng - Hay'' trong sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ EVNICT - Bài 3: ''Thành quả'' thiết thực từ sinh hoạt chuyên đề

Với sự đổi mới, cách làm hay, sinh hoạt chuyên đề tại các chi bộ ở Đảng bộ EVNICT đã có những thành quả nhất định.
Bài 2: Tổ chức sinh hoạt chuyên đề “Đúng - Trúng - Hay”

Bài 2: Tổ chức sinh hoạt chuyên đề “Đúng - Trúng - Hay”

Việc tổ chức sinh hoạt chuyên đề “Đúng-Trúng -Hay” là một nhiệm vụ không dễ tuy nhiên ở Đảng bộ EVNICT đã nỗ lực thực hiện và có những thành công nhất định.
“Đúng - Trúng - Hay” trong sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ EVNICT - Bài 1: Nâng “chất” sinh hoạt chi bộ hàng tháng

“Đúng - Trúng - Hay” trong sinh hoạt chi bộ ở Đảng bộ EVNICT - Bài 1: Nâng “chất” sinh hoạt chi bộ hàng tháng

“Chi bộ là đồn lũy của Đảng chiến đấu ở trong quần chúng” và “là sợi dây chuyền để liên hệ Đảng với quần chúng”.
Đường Hồ Chí Minh trên biển: Kỳ tích làm nên huyền thoại

Đường Hồ Chí Minh trên biển: Kỳ tích làm nên huyền thoại

63 năm đã trôi qua, nhưng con đường huyền thoại - đường Hồ Chí Minh trên biển vẫn hiện hữu và trở thành một kỳ tích của dân tộc Việt Nam.
Cảnh giác trên ‘chiến trường thông tin’, tăng giá điện bị đẩy thành ‘vũ khí’ chống phá

Cảnh giác trên ‘chiến trường thông tin’, tăng giá điện bị đẩy thành ‘vũ khí’ chống phá

Những luận điệu xuyên tạc về việc thông báo tăng giá điện gần đây là một chiêu trò quá quen thuộc mà các thế lực thù địch và cơ hội chính trị luôn sử dụng.
Thường xuyên thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như

Thường xuyên thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như 'rửa mặt hàng ngày'

Vấn nạn lãng phí còn diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ lụy nghiêm trọng cho phát triển xã hội.
Đào tạo, phát triển cán bộ trẻ - lực lượng nòng cốt trong công tác xây dựng Đảng

Đào tạo, phát triển cán bộ trẻ - lực lượng nòng cốt trong công tác xây dựng Đảng

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ trẻ, tạo điều kiện đào tạo bài bản cả trong và ngoài nước.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng hướng tới mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng

Bảo vệ nền tảng tư tưởng hướng tới mục tiêu 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng

VietnamPlus trân trọng giới thiệu nội dung bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tại Lễ trao giải Cuộc thi Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ Tư, năm 2024.
Báo Công Thương đoạt giải Khuyến khích Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Báo Công Thương đoạt giải Khuyến khích Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Lần đầu tiên Báo Công Thương đoạt giải Khuyến khích “Cuộc thi chính luận về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”.
Đảng bộ Trường Đại học Điện lực chủ động đổi mới, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kép

Đảng bộ Trường Đại học Điện lực chủ động đổi mới, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kép

Thời gian qua Đảng bộ Trường Đại học Điện lực đã chủ động đổi mới trong thực hiện “nhiệm vụ kép” - chính trị và chuyên môn.
Kỳ 2: Nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục căn bệnh “sợ trách nhiệm”

Kỳ 2: Nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục căn bệnh “sợ trách nhiệm”

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “Sợ trách nhiệm là một khuyết điểm thuộc về ý thức tư tưởng, phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên".
Kỳ 1: Nhận diện về những biểu hiện của căn bệnh “sợ trách nhiệm”

Kỳ 1: Nhận diện về những biểu hiện của căn bệnh “sợ trách nhiệm”

Gõ từ khóa “sợ trách nhiệm”, chúng ta sẽ nhận được hàng nghìn kết quả, trong đó có hàng trăm bài viết, phóng sự bàn luận dưới nhiều bàn luận, góc nhìn.
Bồi dưỡng văn hoá chính trị: Hành trang cần thiết cho thế hệ trẻ!

Bồi dưỡng văn hoá chính trị: Hành trang cần thiết cho thế hệ trẻ!

Nâng cao nhận thức về văn hóa chính trị ở thế hệ trẻ là yếu tố quyết định đến sự ổn định và tiến bộ của quốc gia trong tương lai.
Xem thêm
Mobile VerionPhiên bản di động