Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) công bố ngày 17/12, sản lượng chạy bằng nhiên liệu than năm 2021 sẽ tăng 9% so với năm ngoái. Sự quay đầu so với mức giảm của hai năm trước đó đe dọa quỹ đạo của thế giới là đạt mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Theo ước tính của IEA, Mỹ và Liên minh châu Âu có mức tăng sử dụng than lớn nhất với khoảng 20%, tiếp theo là Ấn Độ với 12% và Trung Quốc - nước tiêu thụ lớn nhất thế giới - ở mức 9%. Sự trở lại đang được thúc đẩy bởi sự phục hồi kinh tế từ đại dịch Covid-19, đang vượt xa khả năng duy trì nguồn cung cấp năng lượng carbon thấp.
IEA khẳng định than là nguồn phát thải carbon lớn nhất toàn cầu, và mức sản xuất điện than cao trong lịch sử năm nay là một dấu hiệu đáng lo ngại về việc thế giới đang nỗ lực giảm phát thải về mức 0 ròng. Giá khí đốt tự nhiên tăng kỷ lục đã làm tăng sự phụ thuộc vào các nguồn khác, bao gồm cả than, và tăng cường kêu gọi đầu tư nhanh hơn vào năng lượng tái tạo. Giá điện ở châu Âu đã tăng hơn gấp ba lần trong sáu tháng qua và đốt than đá có lợi hơn đốt khí đốt. Tuy nhiên, các công ty tiện ích vẫn phải vật lộn để bắt tay vào việc này ngay cả khi Trung Quốc và Mỹ tăng cường sản xuất. Báo cáo cho biết lượng khí thải carbon-dioxide từ than vào năm 2024 hiện được dự đoán sẽ cao hơn ít nhất 3 tỷ tấn so với kịch bản đạt mức ròng vào năm 2050. IEA dự kiến lượng than đạt đỉnh vào năm tới là 8,11 tỷ tấn, trong đó sản lượng tăng mạnh nhất đến từ Trung Quốc, Nga và Pakistan.
IEA hồi tháng 5 cho biết việc phát triển các nguồn dầu, khí đốt và than mới phải dừng lại trong năm nay nếu thế giới đạt được các mục tiêu phát thải theo Thỏa thuận Paris. Các nhà vận động khí hậu đã thất vọng vào tháng 11 khi nguyện vọng chính của hội nghị thượng đỉnh về khí hậu COP26 của Liên hợp quốc đưa ra cam kết “giảm dần” - thay vì “loại bỏ” - sử dụng than. Chính quyền của Tổng thống Mỹ Joe Biden kể từ đó đã ngừng viện trợ liên bang cho các dự án nhiên liệu hóa thạch mới ở nước ngoài. Một số ngân hàng đã cam kết loại bỏ dần việc tài trợ than đá, mặc dù các nhà hoạt động muốn thấy sự cấp bách hơn. Năm nay, nhu cầu than nói chung - cho sản xuất điện cũng như sản xuất xi măng và thép - dự kiến sẽ tăng 6%. Cơ quan này cho biết nhu cầu có thể lập kỷ lục trong năm tới, tùy thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế và thời tiết. Một nhà xuất khẩu của Australia dự đoán nhu cầu sẽ tăng mạnh trong ít nhất hai thập kỷ nữa.
Sự chênh lệch giữa các khu vực trong việc sử dụng đang diễn ra trên toàn cầu khi châu Âu đóng cửa các nhà máy điện than trong khi Trung Quốc và Ấn Độ tăng cường sản xuất. Liên minh châu Âu đã tăng cường cam kết về khí hậu vào tháng 7, với mục tiêu giảm 55% lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030, so với mức cơ sở năm 1990, với sự chuyển đổi sang các nguồn sạch hơn ở trung tâm. Đó là một mục tiêu khó khăn, đặc biệt khi xét đến việc các quốc gia như Ba Lan và Cộng hòa Séc chủ yếu cung cấp năng lượng cho mình bằng than và than non. Hiện tại, Trung Quốc chiếm khoảng một nửa sản lượng than toàn cầu và cần đáp ứng nhu cầu trong nước đang gia tăng. Chính phủ đã gây áp lực buộc các công ty khai thác phải giảm giá và giảm chi phí đốt than trong cuộc khủng hoảng năng lượng năm nay, điều này đã gây ra tình trạng mất điện và phân bổ ở quốc gia này.
Dave Jones, trưởng chương trình toàn cầu tại tổ chức khí hậu Ember lo ngại khi điện than có thể đạt mức cao nhất mọi thời đại trong cùng năm mà các quốc gia đồng ý giảm dần. Năng lượng than chắc chắn sẽ sớm bắt đầu suy giảm: Trung Quốc đã cam kết cắt giảm dần than từ năm 2025, trong khi mục tiêu năng lượng tái tạo khổng lồ của Ấn Độ sẽ loại bỏ nhu cầu sử dụng nhiều than hơn.