Sớm thông qua Luật Điện lực (sửa đổi) tại Kỳ họp thứ 8
Luật Điện lực (sửa đổi) được trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 8 cùng với dự thảo sửa đổi bổ sung một số điều của các luật: Đầu tư, Đấu thầu, Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) và Quy hoạch (dự thảo Luật) đang thu hút được sự quan tâm của đông đảo các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước bởi đây là cơ sở pháp lý quan trọng để kịp thời tháo gỡ vướng mắc của nhiều dự án đã tồn tại từ những năm trước cho đến thu hút các dự án đầu tư mới mà nhiều nhà đầu tư còn chờ “Luật” để có quyết định đầu tư.
Nói về tính cấp bách cần sớm thông qua Luật Điện lực (sửa đổi), đại biểu Phạm Văn Thịnh – Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang cho biết: Các nội dung Chính phủ trình sửa đổi Luật Điện lực cùng với dự thảo của 4 Luật được đặt ra tại Kỳ họp thứ 8 đều rất cấp thiết, liên quan trực tiếp đến những vấn đề quan trọng, cấp bách.
Đại biểu Quốc hội Phạm Văn Thịnh đề nghị thông qua Luật Điện lực sửa đổi cùng với dự thảo 4 Luật tại Kỳ họp thứ 8 (Ảnh tư liệu) |
Trước hết về chiến lược, theo đại biểu Phạm Văn Thịnh, liên quan trực tiếp đến an ninh năng lượng của đất nước với trọng tâm là Luật Điện lực sửa đổi.
“Nếu những vướng mắc trong Luật Điện lực chậm được sửa đổi, bổ sung thì nhiệm vụ đảm bảo an ninh năng lượng của đất nước ngày càng khó khăn; cơ hội thu hút dòng vốn đầu tư vào lĩnh vực năng lượng cũng như đa dạng dòng vốn quốc tế đầu tư vào Việt Nam cũng sẽ có thể bị mất đi. Việc phát triển năng lượng tái tạo, nguồn năng lượng mới giảm phát thải cũng sẽ bị hạn chế”- đại biểu Phạm Văn Thịnh nhấn mạnh.
Về thể chế hoá chủ trương của Đảng, đại biểu cho biết, Hội nghị Trung ương 10 đã kết luận công tác xây dựng pháp luật cần được thực hiện kịp thời, tư duy xây dựng pháp luật cần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, huy động nguồn lực đầu tư và giải phóng tối đa nguồn lực trong xã hội. Chính phủ trình Quốc hội thông qua các dự án luật sửa đổi bổ sung tại kỳ họp này đã thể hiện tinh thần kết luận của Trung ương tại Hội nghị lần thứ 10. Điều này cho thấy chủ trương của Đảng về công tác xây dựng thể chế đã nhanh chóng được triển khai và đi vào cuộc sống.
“Vì vậy, cá nhân tôi ủng hộ việc Quốc hội xem xét và thông qua Luật Điện lực sửa đổi; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của 4 Luật: Đầu tư, PPP, Quy hoạch và Đấu thầu tại kỳ họp lần này, trước hết là đối với những nội dung đã rõ ràng và thực sự cấp bách, cần thiết phải ban hành ngay”- đại biểu Phạm Văn Thịnh khẳng định.
Luật Điện lực (sửa đổi) giải quyết những vướng mắc từ thực tiễn
Sau gần 20 năm triển khai thi hành và qua 03 lần sửa đổi, bổ sung, đến nay Luật Điện lực cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong thực tiễn hoạt động điện lực và sử dụng điện.
Trong thực tiễn thi hành pháp luật về điện lực cho thấy còn tồn tại một số vấn đề mà các quy định tại Luật Điện lực hiện hành chưa đáp ứng được, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung nhằm đáp ứng mục tiêu triển khai các chính sách của Đảng đối với lĩnh vực năng lượng nói chung và điện lực nói riêng. Đặc biệt là mục tiêu bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, tăng cường phân công, phân cấp, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về điện lực, đồng thời giải quyết một số vướng mắc trong quá trình thi hành Luật Điện lực hiện đang thiếu cơ sở pháp lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Về quy hoạch phát triển điện lực, hiện nay, việc thực hiện quy hoạch phát triển điện lực quốc gia có một số vướng mắc trong triển khai thực hiện, ảnh hưởng đến an ninh cung cấp điện. Cụ thể như chất lượng xây dựng, tổ chức, triển khai thực hiện quy hoạch ngành điện chưa cao.
Thực tế cho thấy, quy hoạch phát triển điện lực (QHPTĐL) có liên quan tới nhiều quy hoạch của các ngành như: Than, dầu khí, năng lượng tái tạo, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Quy hoạch giao thông, Quy hoạch không gian đô thị, Quy hoạch phát triển công nghiệp... Do vậy, trong quá trình triển khai thực hiện việc đồng bộ hóa các quy hoạch này khá khó khăn do thời điểm xây dựng các quy hoạch thường không trùng khớp nhau. Các số liệu phục vụ quy hoạch chưa hoàn toàn đầy đủ, thiếu đồng bộ dẫn tới các kết quả dự báo, tính toán chưa chính xác.
Là tỉnh nằm trong Quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ sẽ xây dựng Trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng, Ninh Thuận hiện có 57 dự án điện gió, điện mặt trời và thủy điện vận hành với tổng công suất 3.749 MW. Năng lượng tái tạo đã đóng góp cho ngân sách tỉnh hơn 7.000 tỉ đồng. Các dự án năng lượng tái tạo đã nâng cao giá trị sử dụng đất đối với các diện tích đất khô cằn, hoang hóa không thể sản xuất nông nghiệp.
Theo quy hoạch đến năm 2030, tỉnh Ninh Thuận có tiềm năng phát triển điện gió hơn 1.400 MW, điện gió ven biển 4.380MW; điện gió ngoài khơi 2.000 MW, điện mặt trời 11.200 MW; điện khí LNG 1.500 MW và thủy điện tích năng 2.400 MW.
Đại biểu Trần Quốc Nam tại phiên thảo luận ở tổ về 4 dự thảo Luật ngày 30/10 (Ảnh: Thu Hường) |
Tuy nhiên, từ thực tiễn triển khai các dự án năng lượng tái tạo vừa qua, đại biểu Trần Quốc Nam – Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Ninh Thuận cho biết: Từ những bất cập trong hệ thống pháp luật không đồng bộ, thống nhất đã dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý nhà nước đối với việc triển khai thực hiện quy hoạch chưa hiệu quả, thủ tục triển khai dự án phức tạp. Điều này dẫn đến khó khăn cho địa phương trong bố trí nguồn lực đất đai cũng như các nội dung liên quan đến các luật khác.
Theo báo cáo tổng kết, đánh giá kết quả 20 năm thực thi Luật Điện lực chỉ rõ, đối với vấn đề quy hoạch, hiện tiến độ thực hiện, xác định nguồn lực một số dự án trong quy hoạch chưa rõ ràng. Việc đàm phán các hợp đồng dự án BOT phụ thuộc vào nhiều yêu cầu khắt khe từ các tổ chức tài chính quốc tế (bên cho vay) và có nhiều nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý của các bộ, ngành và địa phương khác nhau khiến thời gian phát triển dự án kéo dài.
Bên cạnh đó, năng lực của các nhà đầu tư cũng như nhà thầu trong nước còn hạn chế cả về mặt tài chính và kỹ thuật. Một số địa phương chậm bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư theo cam kết để triển khai dự án. Trong giai đoạn hiện nay, các tổ chức tài chính quốc tế lại hạn chế hoặc không tiếp tục tài trợ cho các dự án nhiệt điện than.
Bởi vậy, vướng mắc khi triển khai các dự án theo Quy hoạch phát triển điện lực cần thực hiện điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đất rừng: Danh mục dự án điện đã được phê duyệt thoả thuận vị trí địa điểm, tuy nhiên chưa được địa phương đưa vào quy hoạch sử dụng đất, không có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm nên phải thực hiện các thủ tục về điều chỉnh theo quy định. Nhiều dự án điện khi thực hiện bước phê duyệt thiết kế kỹ thuật phải chờ địa phương làm các thủ tục bổ sung kế hoạch sử dụng đất. Việc này kéo dài thời gian triển khai dự án (chậm từ 06 tháng đến 01 năm, thậm chí dài hơn).
Do vậy, cần phải có các giải pháp trong tổ chức, quản lý thực hiện quy hoạch, đầu tư phát triển điện lực đồng bộ, quyết liệt, từ Trung ương, các bộ, ngành đến địa phương, các tập đoàn kinh tế nhà nước,….
Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách đối với ngành điện còn thiếu đồng bộ, các văn bản pháp luật liên quan đến cung ứng điện còn nhiều bất cập, mâu thuẫn, nhiều nội dung không rõ ràng, còn nhiều vướng mắc.
Đơn cử, về phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương trong lĩnh vực điện lực vướng mắc về thẩm quyền. Giai đoạn 2015 - 2020: Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 chưa quy định thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư các dự án nhóm A có tổng mức đầu tư (từ 2.300 đến dưới 5000 tỷ đồng) sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước và các dự án xây dựng trên địa bàn nhiều tỉnh. Đến năm 2021, Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 có hiệu lực, đã quy định rõ thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư để tháo gỡ vướng mắc nêu trên.
Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 và Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29 tháng 09 năm 2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa quy định rõ việc “xem xét, phê duyệt” của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước trong thủ tục trình tự phê duyệt dự án đầu tư đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước.
Luật Điện lực (sửa đổi) và 4 dự thảo Luật được thông qua sẽ kịp thời tháo gỡ các vướng mắc trong triển khai các dự án phát triển điện lực và thu hút các dự án đầu tư (Ảnh minh họa: Văn Nỷ) |
Còn về Quy trình đầu tư (về thẩm quyền quyết định dự án đầu tư) giữa Luật số 69/2014/QH13 khác với trình tự thủ tục đầu tư tại Luật Đầu tư, Luật Xây dựng và Luật Đầu tư công.
Mặc dù, tại điểm a, khoản 3, Điều 4 Luật Đầu tư số 61/2020/QH14 quy định: Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về trình tự, thủ tục đầu tư kinh doanh, bảo đảm đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư, trừ các trường hợp sau đây “Việc đầu tư, quản lý, sử dụng vốn đầu tư của Nhà nước tại doanh nghiệp thực hiện theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp”.
Tuy nhiên, các dự án điện sử dụng vốn nhà nước vẫn còn chưa rõ ràng trong tổ chức thực hiện trình, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư theo Luật Đầu tư quy định “có” hay “không” thực hiện thủ tục này.
Đặc biệt, Luật Điện lực chưa có chế tài ràng buộc trách nhiệm của các chủ đầu tư khi thực hiện chậm trễ các dự án đầu tư xây dựng công trình điện. Mặc dù Luật Đầu tư, Luật Đất đai đã có các quy định xử lý các trường hợp cần thu hồi dự án. Tuy nhiên, trong thực tế, việc thực hiện thủ tục này chưa quyết liệt từ các cơ quan có thẩm quyền tại địa phương và trung ương…
Tất cả những khó khăn, vướng mắc đang diễn ra trong thực tiễn sẽ được tháo gỡ trong Luật Điện lực (sửa đổi) cùng với 4 dự thảo Luật được trình Quốc hội xem xét tại Kỳ họp thứ 8.