Thay thế quy định không còn phù hợp
Tại họp báo thường kỳ của Bộ Công Thương ngày 12/1 mới đây, Thứ trưởng Công Thương Đỗ Thắng Hải cho biết, quy định về cách tính tỷ lệ nội địa hoá linh kiện, cụm linh kiện ô tô được thực hiện từ năm 2004. Tới nay sau gần 20 năm đã cho thấy nhiều nội dung không còn phù hợp thực tế, cần sửa đổi để phù hợp với các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã ký.
Quy định phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hóa với ô tô nhập khẩu do Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành hết giá trị pháp lý đã hơn 7 năm nhưng vẫn chưa bị bãi bỏ |
Thứ trưởng nhìn nhận, Bộ Khoa học & Công nghệ cũng nhận thấy những tồn tại này và đang trong quá trình chỉnh sửa. "Là cơ quan quản lý Nhà nước lĩnh vực công nghiệp, sản xuất ôtô, Bộ Công Thương sẽ cùng Bộ Khoa học và Công nghệ chỉnh sửa các quy định này", Thứ trưởng nói.
Cách đây 4 tháng, Bộ Khoa học & Công nghệ đã lấy ý kiến các bộ, ngành về dự thảo Thông tư bỏ các văn bản về phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hoá với ôtô và mức độ rời rạc của các linh kiện ôtô nhập khẩu.
Cơ quan này đánh giá các quy định này không còn phù hợp với công nghệ sản xuất ôtô sau gần 20 năm và các quy định tại các FTA mà Việt Nam tham gia, nên đề xuất bỏ.
Theo Bộ Công Thương, phương pháp xác định tỷ lệ nội địa hoá đang áp dụng từ năm 2004 chưa phản ánh đầy đủ giá trị, hàm lượng công nghệ của các linh kiện trên ôtô trong tổng sản phẩm hoàn chỉnh. Chẳng hạn, cùng một loại linh kiện nội, ngoại thất như nhau trên ôtô nhưng nếu vật liệu, công nghệ chế tạo khác nhau thì giá trị linh kiện chênh lệch lớn ở từng mẫu xe, phiên bản xe. Như cùng là bộ ghế, có mẫu xe dùng ghế chỉnh cơ, vỏ bọc bằng nỉ, nhưng cũng có mẫu xe dùng ghế điều chỉnh bằng điện, vỏ bọc da, có hệ thống sưởi... Tuy nhiên, cùng là ghế ôtô nên điểm nội địa hoá lại như nhau, trong khi tính năng công nghệ, chất liệu và giá thành khác nhau.
Trong khi đó, quy định hiện nay Việt Nam vẫn sử dụng cách tính tỷ lệ nội địa hoá theo cụm chi tiết được sản xuất trong nước. Trong khi theo thông lệ quốc tế các nước tính theo tỷ lệ phần trăm giá trị sản xuất trong nước. Điều này khiến các doanh nghiệp khó được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu đãi 0% nếu tỷ lệ nội địa hoá nội khối, như với ASEAN là 40%.
Ngoài ra, về mức độ rời rạc của linh kiện ôtô nhập khẩu, quy định hiện hành thì các linh kiện nhập khẩu phải đi theo cụm, đi kèm nhiều chi tiết khác nhau. Chẳng hạn, một chiếc ghế trong ôtô gồm 3 mảnh, thì doanh nghiệp phải nhập khẩu cả 3 mảnh đó cùng một nơi xuất xứ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập, các doanh nghiệp được hưởng lợi rất nhiều từ việc nhiều quốc gia đối tác gỡ bỏ thuế quan, nên họ có thể nhập linh kiện rời từ các đối tác khác nhau hoặc từ các quốc gia khác nhau để được ưu đãi.
Việc thay đổi cách tính mức độ rời rạc của linh kiện theo chi tiết nhỏ, thay vì quy định "cứng" về mức độ rời rạc của linh kiện, sẽ tối ưu hoá chi phí sản xuất, phù hợp thực tế.
Liên quan đến nội dung này, Bộ Giao thông Vận tải cũng góp ý, các quy định về mức độ rời rạc của linh kiện ôtô hiện nay gây chồng chéo về quản lý, tạo thêm rào cản cho doanh nghiệp sản xuất lắp ráp trong nước, nên rà soát, bãi bỏ. Việc loại bỏ quy định về mức độ rời rạc của linh kiện ôtô nhập khẩu là điều cấp thiết, để phát triển ngành công nghiệp ôtô bền vững, hội nhập với thế giới.
Sau thời gian nhận góp ý từ các bộ, ngành, dự thảo Thông tư bỏ cách tính tỷ lệ nội địa hoá với linh kiện ôtô vẫn đang được Bộ Khoa học & Công nghệ nghiên cứu, hoàn thiện.
Bộ chức năng cần vào cuộc kịp thời tạo môi trường kinh doanh lành mạnh
Ngoài ra cũng cần nhìn nhận cụ thể hơn, sản xuất lắp ráp ô tô hiện là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư tại Nghị định số 116/2017/NĐ-CP và Nghị định 17/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 116/2017/NĐ-CP và mọi doanh nghiệp muốn sản xuất lắp, ráp ô tô tại Việt Nam đều phải chấp hành.
Tại Điểm đ khoản 1 Điều 29 Nghị định 116/2017, Chính phủ cũng “giao Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan trình Thủ tướng Chính phủ ban hành phương pháp xác định tỷ lệ giá trị sản xuất trong nước đối với ô tô”.
Trước đó, tại phiên họp ngày 15/4/2021, để triển khai công việc của Chính phủ sau khi được kiện toàn tại Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Chính phủ đã đề ra một số quan điểm, định hướng trong công tác chỉ đạo, điều hành. Đó là đẩy mạnh việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách để huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực phục vụ phát triển đất nước. Tích cực hơn nữa trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho sản xuất, kinh doanh bằng thể chế, cơ chế, chính sách phù hợp; chủ động xử lý hiệu quả những vấn đề tồn đọng kéo dài.
Theo yêu cầu của Chính phủ, “Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật; theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền chủ động nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích đổi mới, sáng tạo. Các bộ, cơ quan, địa phương tiếp tục và khẩn trương rà soát văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước được phân công, theo dõi, tổ chức thực hiện để sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy phát triển”.
Tiếp đó, tại Nghị Quyết số 02/NQ-CP, ngày 10/01/2022 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cáo năng lực cạnh tranh trong môi trường quốc gia năm 2022, Chính phủ yêu cầu các Bộ ngành chú trọng thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong đó có “cắt giảm danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và cải cách điều kiện kinh doanh” và “tập trung dỡ bỏ rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh do chồng chéo, mâu thuẫn, không hợp lý, khác biệt của các quy định pháp luật.”
Theo đó đối với ngành công nghiệp ô tô, để tạo điều kiện thuận lợi cho ngành này phát triển theo xu thế hội nhập (phục vụ xuất khẩu, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu) trong bối cảnh hiện nay đáp ứng các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2022 do Chính phủ ban hành, theo thẩm quyền, chức năng nhiệm vụ được giao, Bộ Khoa học và Công nghệ cần sớm bãi bỏ các quy định nêu trên theo tinh thần các Nghị quyết trên của Chính phủ, đảm bảo sự thống nhất của văn bản quy phạm pháp luật.