Họa sĩ Vũ Hy Thiều, Chủ tịch Hội đồng cố vấn Hiệp hội Thủ công mỹ nghệ đã có cuộc trao đổi với phóng viên Báo Công Thương xung quanh vấn đề này.
Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam, bản sắc riêng và sức hút toàn cầu
- Ông đánh giá như thế nào về sản phẩm làng nghề nói chung và thủ công mỹ nghệ Hà Nội nói riêng?
Ông Vũ Hy Thiều: Hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam nói chung và của Hà Nội nói riêng từ lâu đã được bạn bè quốc tế đánh giá cao bởi những giá trị độc đáo không thể sao chép. Trước hết, đó là dấu ấn đậm nét của bản sắc dân tộc. Mỗi sản phẩm đều mang trong mình tinh thần văn hóa Việt, dễ dàng phân biệt với sản phẩm của các quốc gia khác. Từ họa tiết, chất liệu đến kỹ thuật chế tác, tất cả đều phản ánh cốt cách riêng của người Việt.

Sản phẩm đồ thủ công mỹ nghệ nhóm hàng sơn mài, khảm trai trưng bày tại Điểm trưng bày, giới thiệu và quảng bá sản phẩm OCOP Thủ đô (Số 176 đường Quang Trung, phường Hà Đông, TP. Hà Nội). Ảnh: Nguyễn Hạnh
Bên cạnh đó, sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam sử dụng thuần nguyên liệu thiên nhiên, yếu tố ngày càng được thị trường thế giới coi trọng trong xu hướng tiêu dùng bền vững và thân thiện với môi trường.
Một yếu tố nữa cần được nhắc đến, đó là sự sáng tạo và tâm huyết của người nghệ nhân, những “nghệ sĩ dân gian” chân chính. Mỗi sản phẩm là một câu chuyện văn hóa, một cảm hứng nghệ thuật. Không chỉ những sản phẩm cao cấp như đồ gốm, thổ cẩm, thêu cung đình, sập gụ, tủ chè… mà ngay cả những vật dụng đơn sơ, gắn với sinh hoạt thường ngày như ấm, nồi, dụng cụ đánh bắt cá… cũng được quốc tế yêu thích vì sự tinh xảo, gần gũi và đậm chất văn hóa.
Đơn cử, một du khách người Hà Lan khi đến làng gốm Phù Lãng đã bị cuốn hút bởi cách người dân sắp xếp chiếc ấm thành mô hình tháp, đến mức bà mua toàn bộ 200 chiếc ấm để mang về dựng lại mô hình trong vườn nhà. Điều đó cho thấy cái đẹp của hàng thủ công Việt không chỉ nằm ở công năng sử dụng, mà còn là biểu tượng văn hóa, khơi gợi cảm xúc và truyền cảm hứng sáng tạo vượt biên giới.
- Trong bối cảnh hội nhập, đâu là yếu tố then chốt giúp sản phẩm thủ công Việt chinh phục thị trường quốc tế, thưa ông?
Ông Vũ Hy Thiều: Các nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam được thừa hưởng một truyền thống quý báu, hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử. Nếu thống kê đầy đủ, có thể lên tới hàng chục vạn mẫu hàng thủ công truyền thống. Trên nền tảng di sản ấy, các nghệ nhân tiếp tục sáng tạo ra nhiều sản phẩm mới, vừa đậm đà bản sắc Việt, vừa phù hợp với thị hiếu và nhu cầu của đời sống hiện đại. Nhờ đó, thủ công mỹ nghệ không chỉ góp phần bảo tồn văn hóa dân tộc mà còn mang lại giá trị kinh tế cao, trở thành mặt hàng xuất khẩu sớm nhất của Việt Nam ngay từ năm 1957 và đến nay vẫn giữ vai trò quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của đất nước.
Các nghề thủ công truyền thống của Việt Nam từ đồng bằng đến miền núi, từ cộng đồng người Kinh đến các dân tộc thiểu số vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong dòng chảy hiện đại. Trên nền tảng di sản quý báu, nhiều làng nghề đã không ngừng sáng tạo, thích ứng với xu hướng tiêu dùng mới, tạo nên diện mạo mới cho ngành hàng thủ công mỹ nghệ.
Làng lụa Vạn Phúc, với các dòng sản phẩm khăn, trang phục, đồ nội thất cho gia đình và khách sạn, đã khéo léo kết hợp kỹ thuật dệt truyền thống với thiết kế hiện đại. Nghề thêu không chỉ bó hẹp trong tranh ảnh mà còn mở rộng sang lĩnh vực thời trang. Gốm Bát Tràng, với hàng trăm mẫu ấm chén, lọ, bình… minh chứng cho sức sống bền bỉ và khả năng thích nghi cao.
Sơn mài cũng đang có nhiều hướng đi mới. Bên cạnh sơn mài truyền thống, một số sản phẩm sử dụng vật liệu hiện đại như bột gỗ ép và sơn ô tô cũng tạo được dấu ấn riêng. Dù không thuần kỹ thuật cổ truyền, nhưng chính sự kết hợp này lại được thị trường nước ngoài đón nhận, thậm chí được sử dụng để trưng bày cùng ô tô cao cấp tại triển lãm ở Ý.
Trong khi đó, các sản phẩm mây tre đan vốn gắn liền với đời sống nông thôn đang dần nghệ thuật hóa. Từ vật dụng đơn thuần, giờ đây túi xách, bàn ghế từ mây tre được thiết kế tinh tế, hướng đến thị trường tiêu dùng trung, cao cấp. Nhiều cơ sở có doanh thu xuất khẩu lên tới hàng trăm nghìn USD mỗi năm.
Đặc biệt, xu hướng nghệ thuật hóa hàng thủ công đang ngày càng rõ nét. Các nghệ nhân không chỉ gìn giữ bản sắc truyền thống, mà còn tạo ra các dòng sản phẩm mang tính nghệ thuật cao, có khả năng tiếp cận thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ ngày càng đa dạng của người tiêu dùng toàn cầu.
Không chỉ giữ vai trò gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam ngày càng thể hiện giá trị thẩm mỹ, sáng tạo và khả năng vươn ra thị trường quốc tế.
Làng nghề Phú Vinh, một địa danh nổi tiếng với nghề mây tre đan của Hà Nội đã tạo ra nhiều sản phẩm tinh xảo, được giới chuyên môn và người tiêu dùng nước ngoài đánh giá cao. Một chiếc hộp mây tre được nghệ nhân làng Phú Vinh chế tác từng được tặng cho hiệu trưởng Trường Mỹ nghệ Đan Mạch. Bà giữ gìn món quà như một báu vật, luôn mang theo bên mình, thể hiện sự trân trọng mà đôi khi chính người Việt lại chưa dành đủ cho sản phẩm quê hương.
Từ những vật dụng quen thuộc như lồng bàn, chao đèn, các nghệ nhân đã nâng tầm giá trị thủ công bằng sự sáng tạo. Lồng bàn của cụ Nguyễn Trọng Tân (làng nghề Phú Vinh) từng giành giải nhất trong cuộc thi do JICA tổ chức tại Việt Nam, từ một món hàng có giá 1 triệu đồng đã trở thành tác phẩm được định giá và trao thưởng tới 20 triệu đồng.
Sản phẩm chao đèn của nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh cũng là một minh chứng. Khi được trưng bày tại khách sạn Melia (Hà Nội), đã có 6 công ty nước ngoài cùng lúc muốn mua, nhưng tiếc là chỉ có duy nhất một chiếc.
Không dừng lại ở mây tre đan, nhiều nghệ nhân còn theo đuổi xu hướng nghệ thuật hóa với các dòng sản phẩm điêu khắc gỗ, gốm sáng tạo mới, đồ đồng, đồ bạc. Các sản phẩm mang đậm hơi thở truyền thống nhưng vẫn tạo nên vẻ hiện đại, tinh tế, hướng tới thị trường cao cấp.
Cần cơ chế đồng hành cùng nghệ nhân, làng nghề thủ công mỹ nghệ
- Theo ông, đâu là giải pháp khả thi để định hướng sáng tạo của nghệ nhân phù hợp hơn với thị hiếu trong và ngoài nước?
Ông Vũ Hy Thiều: Sự sáng tạo trong các sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam vô cùng phong phú. Tuy nhiên, để nguồn sáng tạo ấy phát huy hết tiềm năng, cần có sự định hướng, hỗ trợ thiết thực từ các cơ quan chức năng và chính sách phù hợp.
Hiện nay, nhiều nghệ nhân vẫn sáng tác theo cảm hứng cá nhân, thiếu định hướng rõ ràng về thị trường và người tiêu dùng. Họ làm ra sản phẩm mà chưa biết bán cho ai, dùng vào việc gì. Vì vậy, thứ nhất, cần có định hướng sáng tạo phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước, nhất là từ các đơn vị liên quan đến xuất khẩu.
Thứ hai, thông tin thị trường là yếu tố then chốt. Nhiều nghệ nhân không biết khách quốc tế mua sản phẩm thủ công để sử dụng như thế nào. Đơn cử như trường hợp một chuyên gia người Hà Lan khi tôi dẫn lên chợ Đồng Xuân đã mua 20 cái rế bắc nồi với kích thước to, nhỏ khác nhau. Sau khi về nước, bà đã ghép lại thành chiếc chao đèn nghệ thuật đặt trong phòng khách. Những ví dụ như vậy cho thấy, nhu cầu sử dụng của thị trường quốc tế rất khác biệt và các nghệ nhân cần được cung cấp thông tin thị trường để điều chỉnh thiết kế cho phù hợp.
Thứ ba, cần tăng cường tổ chức tư vấn chuyên sâu tại các làng nghề Hà Nội. Trung tâm Khuyến công và Tư vấn phát triển công nghiệp Hà Nội là một trong những đơn vị tiên phong, nhưng cần nhân rộng và duy trì thường xuyên các hình thức tư vấn này.
Thứ tư, khuyến khích sáng tạo thông qua các cuộc thi cũng là cách hiệu quả để thúc đẩy nghệ nhân đổi mới tư duy, nâng cao giá trị sản phẩm.
Thứ năm, nên tổ chức các chuyến tham quan trong và ngoài nước để nghệ nhân học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận xu hướng mới. Tuy nhiên, cần thay đổi tư duy tổ chức, không nên trông chờ vào ngân sách nhà nước. Thay vào đó, có thể vận động nghệ nhân tự đóng góp kinh phí. Nếu có thông tin minh bạch và lộ trình rõ ràng, nhiều nghệ nhân sẵn sàng tham gia các chuyến đi học hỏi tại những quốc gia có ngành thủ công phát triển như Nhật Bản, Ý…
- Xin cảm ơn ông!