Sản phẩm du lịch phải có được bản sắc văn hóa truyền thống
Giá trị kinh tế cao
Không phải giờ đây loại hình du lịch văn hóa mới được chú trọng khai thác. Trước khi đại dịch Covid-19 bùng phát, giai đoạn 2015 - 2019 du lịch Việt Nam đã đạt được những dấu mốc ấn tượng với mức tăng trưởng bình quân về lượt khách đạt 22,7%/năm, doanh thu đạt 20,7%/năm; trong đó, du lịch văn hóa đã khẳng định vai trò quyết định tạo nên kết quả ấn tượng này.
Đời sống văn hóa tinh thần - yếu tố quan trọng để khai thác phát triển du lịch văn hóa |
Nhiều chương trình như tham quan di sản văn hóa cố đô Huế, phố cổ Hội An, khu đền tháp Mỹ Sơn, danh thắng Tràng An; lễ hội Chùa Hương, lễ hội Yên Tử, festival Huế… đã trở thành những sản phẩm du lịch có thương hiệu, hấp dẫn, đem lại nguồn thu lớn cho địa phương.
Nhờ phát triển mạnh loại hình du lịch văn hóa bản địa nên Lai Châu – vùng đất cheo leo, dữ dội của núi dựng, dốc đá... đã khiến không ít người đến rồi khôn nguôi nhớ thương Ô Quy Hồ hùng vĩ, Pu Si Lung hoang sơ, Pu Ta Leng kỳ bí; bản Sin Suối Hồ, bản Mường So, bản Sì Thâu Chải thơ mộng; quần thể hang động Pu Sam Cáp hay những món ăn pa pỉnh tộp, rêu đá nướng, cá bống vùi tro…
Cũng nhờ phát triển du lịch văn hóa, nhiều di sản trước đây bị mai một đã được phục hồi, như nghề làm thuốc của người Dao, nghề thêu dệt thổ cẩm của người Thái ở Mai Châu (Hòa Bình)...
Trong một cuộc khảo sát khách du lịch quốc tế cho thấy, thăm quan di sản văn hóa tại Việt Nam là hoạt động được khách du lịch ưa thích xếp thứ 2 sau nghỉ dưỡng, tắm biển. Sản phẩm hấp dẫn du khách nhất là trải nghiệm văn hóa truyền thống, tìm hiểu đời sống văn hóa cộng đồng của các dân tộc, đặc biệt ở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số và miền núi...
Tạo hiệu quả kinh tế cao từ du lịch văn hóa là không thể phủ nhận, song nhiều ý kiến cho rằng, việc phát triển loại hình du lịch này ở nước ta mới ở bề nổi, khai thác cảnh quan thiên nhiên, nghỉ dưỡng, ẩm thực, chữa bệnh... chưa quan tâm nhiều đến tiềm năng ở tầm sâu hơn, hứa hẹn khả năng phát triển phong phú hơn, đó là đời sống văn hóa gắn bó sâu sắc với đời sống tinh thần của người Việt. Nếu những giá trị đời sống tinh thần được giới thiệu một cách chiến lược, có định hướng thì du lịch Việt Nam sẽ có được bản sắc độc đáo riêng.
Đảm bảo tính hài hòa
Phát huy giá trị văn hóa gắn với phát triển du lịch đang là hướng ưu tiên phát triển của nhiều địa phương hiện nay. Sự phát triển này được nhận định phù hợp với bối cảnh nước ta thời kỳ hậu Covid-19.
Yên Bái là ví dụ điển hình. Địa phương này đang xây dựng kế hoạch đón khách dựa trên kết hợp giá trị thiên nhiên kỳ vĩ cùng văn hóa truyền thống đa sắc. Kỳ vọng vào sự phát triển du lịch sinh thái, văn hóa của tỉnh thời gian tới, bà Lê Thị Thanh Bình - Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Yên Bái - cho biết, mục tiêu phát triển du lịch tỉnh Yên Bái sẽ là xanh, bản sắc, hấp dẫn, bền vững, hiệu quả gắn với bảo vệ môi trường.
Yên Bái hiện đã hình thành những khu du lịch văn hóa và bước đầu đi vào hoạt động có hiệu quả, như: Du lịch lòng hồ Thác Bà, di tích quốc gia đặc biệt Ruộng bậc thang Mù Cang Chải, suối nước nóng Trạm Tấu...
Để phát huy lợi thế loại hình du lịch này, nhiều năm nay, tỉnh Yên Bái đã ban hành những cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển du lịch, trong đó ưu tiên phát triển du lịch văn hóa, du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng gắn với bảo tồn, gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc theo hướng chuyên nghiệp, chất lượng, hiệu quả.
Để cụ thể hóa việc hỗ trợ, khuyến khích đầu tư phát triển du lịch văn hóa trong giai đoạn 2021-2025, Yên Bái đã ban hành Nghị quyết về chính sách hỗ trợ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh. Theo đó, nhiều danh thắng tự nhiên, nổi tiếng được quy hoạch, bảo tồn, quản lý và có lộ trình cho việc đầu tư, khai thác, như đỉnh Tà Xùa, Lùng Cúng, Khau Phạ, Tà Chì Nhù, khu bảo tồn Nà Hẩu, khu bảo tồn Chế Tạo, bãi đá cổ La Pán Tẩn...
Hay tại Thanh Hóa, trong chiến lược phát triển du lịch đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 cũng khuyến khích phát triển các loại hình du lịch văn hóa, đặc biệt là du lịch di sản, du lịch văn hóa tâm linh; liên kết xây dựng sản phẩm du lịch văn hóa với các vùng, miền, địa phương trong cả nước. Bên cạnh đó, tập trung xây dựng và hoàn thiện hạ tầng, cơ sở vật chất kinh doanh dịch vụ du lịch tại Di sản thế giới Thành Nhà Hồ, Di tích quốc gia đặc biệt Lam Kinh, các bảo tàng, nhà hát, thư viện, trung tâm chiếu bóng, làng nghề thủ công truyền thống, khu vui chơi giải trí. Đồng thời xúc tiến, quảng bá rộng rãi sản phẩm du lịch văn hóa trong và ngoài nước; chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch văn hóa...
Cùng với Thanh Hóa, Yên Bái, nhiều địa phương trong cả nước cũng đang dành nguồn lực thỏa đáng cho công tác đầu tư, bảo tồn, tôn tạo các di tích, danh thắng; hạ tầng, dịch vụ, đặc biệt là hệ thống giao thông kết nối các khu, điểm di tích nhằm phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch. Đồng thời, chú trọng bảo tồn giá trị văn hóa phi vật thể, thông qua việc gắn kết với các khu điểm du lịch; quan tâm thúc đẩy sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống, sản vật đặc trưng của từng địa phương để phục vụ khách du lịch.
Tuy nhiên theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, để phát triển tốt loại hình du lịch này cần có những điều chỉnh trong hoạch định chính sách và hành động, trước tiên cần đảm bảo tính hài hòa giữa bảo tồn di sản văn hóa với phát triển du lịch; bảo đảm các nguyên tắc trong xây dựng sản phẩm du lịch. Sản phẩm du lịch phải mang linh hồn của văn hóa truyền thống, có nhiều yếu tố đặc sắc, đặc thù cho từng vùng, miền khác nhau, qua đó nâng cao giá trị, gia tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch…