Quyền con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Cho đến nay khái niệm quyền con người không còn xa lạ với mọi người. Khái niệm này đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp 2013.
Việt Nam chủ động tham gia hợp tác vì quyền con người Quyền con người: Một mục tiêu hàng đầu trong cải cách luật pháp và tư pháp Tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền về quyền con người

Nội dung cơ bản của quyền con người là các nhu cầu về vật chất (như ăn, ở, đi lại, môi trường…) và tinh thần (tự do internet, tham gia mạng xã hội, tự do ngôn luận, báo chí, tự do tiếp cận thông tin…) của mọi người. Tuy nhiên cho đến nay phần lớn người chỉ hiểu quyền con người về mặt “quyền” mà chưa hiểu hoặc quên đi quyền con người về mặt “trách nhiệm”, “nghĩa vụ” của mỗi người đối với người khác và xã hội. Cũng còn không ít người hiểu “quyền con người là người ta muốn làm gì thì làm”… Theo nguyên nghĩa - quyền con người không chỉ có “quyền” mà còn bao hàm cả “nghĩa vụ - trách nhiệm” của mỗi người đối với người khác và cộng đồng.

Quyền con người trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ảnh minh họa

Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, quyền con người có đến gần 50 định nghĩa. Sự khác biệt giữa các định nghĩa không chỉ do cách nhìn nhận của các chủ thể mà con do chính sự vận động phát triển của con người. Chẳng hạn như ở thế kỷ XIX, người ta không thể đề cập đến quyền tự do tiếp cận internet, mạng xã hội. Cho đến nay nhiều quốc gia ghi nhận khái niệm quyền con người của Cao ủy Liên hợp quốc. Theo định nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu bảo vệ các cá nhân và các nhóm xã hội chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những quyền được quy định và tự do cơ bản của con người. Trong khái niệm này, quyền con người là những quyền được pháp luật quy định.

Về mặt lịch sử, quyền con người ở nước ta chỉ ra đời từ khi dân tộc ta thoát khỏi chế độ thực dân - phong kiến xây dựng chế độ xã hội mới - chế độ xã hội do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, cầm quyền đến nay (1945-2022). Tuy nhiên trong mỗi thời kỳ lịch sử, quyền con người được hiểu, chỉnh sửa, phát triển cùng với sự phát triển của đất nước.

Vào thời điểm Hiến pháp 1946 ra đời, Công ước quốc tế về quyền con người của cộng đồng quốc tế (1948 ) chưa ra đời thì ở nước ta, ngay từ 1945 khái niệm này không chỉ ra đời mà còn là một giá trị về chính trị và pháp lý của dân tộc ta được công bố trước toàn thế giới. Đó là quyền con người trong bản Tuyên ngôn độc lập, 1945, do Chủ tịch Hồ Chí Minh biên soạn. Tuyên ngôn độc lập, Người viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. “Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Tư tưởng đặc sắc của bản Tuyên ngôn độc lập Việt Nam là ở chỗ: Từ quyền con người của cá nhân được mở rộng, gắn liền với quyền của dân tộc - Đó là quyền độc lập dân tộc, tự do của nhân dân.

Hiến pháp 1946, do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo biên soạn đã thể hiện khá đầy đủ quyền con người gắn liền với quyền công dân. Chẳng hạn, Điều 6 quy định:

“Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá”; “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9). Về các quyền Dân sự chính trị “nhạy cảm” cũng đã được quy định: Công dân có quyền “Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng…”; “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”.

Điều 15, đã có quy định tiến bộ đặc biệt: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình; học trò nghèo được Chính phủ giúp; trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước”.

Điều thứ 16 đối với người nước ngoài ở Việt Nam, Hiến pháp quy định:

“Những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam”.

Các bản Hiến pháp tiếp theo: Hiến pháp 1958, 1992 đều có các quy định về quyền công dân, trong đó bao gồm cả quyền con người. Hiến pháp 2013 lần đầu tiên khái niệm quyền con người được đưa vào văn kiện quan trọng này.

Quyền con người trong Hiến pháp 2013 được quy định trong một chương riêng (Chương II): “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.

Chương này có 12 Điều: Từ Điều 14 đến Điều 26.

Nội dung các quy định về quyền con người bao gồm: “Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, … (Điều 14)

“Mọi người có quyền sống.Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”; “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm;

“Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình.

Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn; Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác”… (Điều 21).

Không phủ nhận rằng, quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, thời kỳ 1976-1985, khi Việt Nam xây dựng nền kinh tế “kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp” đã có một số hạn chế. Chẳng hạn như xóa bỏ các thành phần kinh tế tư nhân (tiểu chủ, tư sản…), chỉ xây dựng, thừa nhận thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể (Hợp tác xã). Nhiều mặt tiêu cực của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã bộc lộ. Đó là sự xuất hiện tình trạng, trì trệ, bóc lột trong xã hội… Ca dao thời kỳ này có câu:

“Mỗi người làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài, mua xe
Mỗi người làm việc bằng ba
Để cho chủ nhiệm xây nhà, lát sân”.

Đối với các tỉnh phía Nam sau ngày giải phóng, Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư nhân. Chính sách này trên thực tế là xóa bỏ nền kinh tế thị trường, xóa bỏ quyền lựa chọn thành phần kinh tế của người dân.

Thời kỳ 1986 - đến nay, nước ta thực hiện đường lối đổi mới. Trên lĩnh vực kinh tế Đại hội IX (tháng 4/2001) Đảng ta quyết định “xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” theo đó, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển “kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tiếp đó Đại hội XII của Đảng (tháng 1/2016) tiếp tục bổ sung, phát triển khái niệm này. “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Đây có thể nói là một bước phát triển đột phá là về tư duy lý luận kinh tế của Đảng ta. Có 2 điểm cần chú ý trong nội dung trên (so với khá niệm kinh tế thị trường trước đó). Đó là “có sự quản lý của Nhà nước” và “hội nhập quốc tế”.

Còn nhớ suốt một thời gian dài, cả về mặt lý luận và thực tiễn, chúng ta đã đối lập một cách siêu hình chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản; xem những gì có trong chủ nghĩa tư bản thì chủ nghĩa xã hội phải xóa bỏ. Vào thời điểm đó chúng ta chưa nhận thức được kinh tế thị trường là thành quả phát triển chung của nhân loại.

Thời kỳ này, chúng ta cũng chưa nhận thức được đầy đủ mối quan hệ giữa kinh tế với quyền con người. Đó là mối quan hệ biện chứng - tương tác - hai chiều. Kinh tế tác động đối với toàn bộ xã hội và mỗi con người. Ngược lại quyền con người cũng tác động đến kinh tế. Kinh tế phát triển, tạo điều kiện cho việc hiện thực hóa các quyền con người. Quyền con người được bảo đảm sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Người dân từ đây có quyền lựa chọn thành phần kinh tế nào có lợi cho mình thì tham gia… hơn nữa một chủ thể có quyền tham gia nhiều thành phần kinh tế...

Một trong những nguyên nhân dẫn đến những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ này là thừa nhận, phát huy quyền sản xuất kinh doanh của người lao động. Còn nhớ thời kỳ này ở nông thôn, đó là khoán hộ. Ở thành thị đó là xóa bỏ chính sách “ngăn sông, cấm chợ”, thừa nhận các thành phần kinh tế, trong đó có thành phần tiểu chủ, tư sản.

Về mặt lý luận và thực tế, chế độ sở hữu có vị trí quan trọng đặc biệt đối với quyền con người. Chế độ sở hữu nhiều thành phần, trong đó có thành phần cá nhân - tiểu chủ là một động lực to lớn thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngược lại, quyền được lựa chọn lao động, việc làm, sản xuất - kinh doanh tất yếu sẽ thúc đẩy quyền con người. Quyền con người trên lĩnh vực kinh tế được tôn trọng, bảo đảm tất yếu sẽ kéo theo sự phát triển trên lĩnh vực văn hóa, xã hội.

Về mặt chính trị, đường lối hội nhập quốc tế của Việt Nam trong những năm qua đã đem lại những bước phát triển mới. Còn nhớ trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1947-1991) Việt Nam chỉ hợp tác, trao đổi hàng hóa với các nước “anh em”, mà bỏ ngỏ thị trường quốc tế rộng lớn. Từ thời kỳ đổi mới đến nay, Việt Nam đã thay đổi tư duy chính trị, theo đó “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”; “Bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Hai năm gần đây kinh tế - xã hội của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, nhờ có các biện pháp ứng phó chủ động, sáng tạo từ Trung ương tới địa phương, khiến cho đại dịch bệnh không nghiêm trọng như nhiều quốc gia khác.

Theo bảng xếp hạng của Expat Explorer, của Ngân hàng HSBC năn 2021 “Việt Nam xếp ở vị trí thứ 19 trong top những quốc gia đáng sống và làm việc nhất trên thế giới… Cũng theo báo cáo này dự kiến, triển vọng của Việt Nam có thể được nâng lên vị trí thứ 11”.

Như vậy có thể nói, sau gần 77 năm kể từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, đất nước, xã hội ta tuy vẫn còn tồn tại những hạn chế, nhưng Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế, xã hội to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử. Trên lĩnh vực kinh tế, từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, qua quá trình phấn đấu, đất nước đã chuyển đổi mô hình - hoàn thiện thể chế kinh tế, hội nhập sâu rộng với cộng đồng quốc tế, đến nay nền kinh tế nước ta được xếp vào hàng ngũ các nền kinh tế có mức tăng trưởng cao trên thế giới. Nhìn từ giác độ quyền con người, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là một trong số ít những quốc gia “đáng sống trên thế giới”./.

TS.Cao Đức Thái
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bài viết cùng chủ đề: kinh tế

Có thể bạn quan tâm

Tin mới nhất

Ngành Công Thương góp phần tô thắm lý luận, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng

Ngành Công Thương góp phần tô thắm lý luận, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng

Những thành tựu trong gần 40 năm đổi mới là minh chứng, luận cứ đanh thép phản bác mọi xuyên tạc về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ngành Công Thương góp phần tô thắm lý luận, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng

Ngành Công Thương góp phần tô thắm lý luận, khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng

Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là đột phá cơ bản về lý luận và được minh chứng tính đúng đắn bằng thành tựu đổi mới...
Bài cuối: Hoàn thiện chính sách xây dựng thương hiệu nông sản hướng đến xuất khẩu

Bài cuối: Hoàn thiện chính sách xây dựng thương hiệu nông sản hướng đến xuất khẩu

Khẳng định việc xây dựng và bảo hộ thương hiệu nông sản Việt “muộn còn hơn không”, do đó, hoàn thiện chính sách pháp luật là việc cần phải làm.
Bài 3: Nghị định 32 và những thay đổi mang tính bước ngoặt cho phát triển cụm công nghiệp

Bài 3: Nghị định 32 và những thay đổi mang tính bước ngoặt cho phát triển cụm công nghiệp

Nghị định 32/2024/NĐ-CP do Bộ Công Thương chủ trì soạn thảo đã đưa ra nhiều điểm mới, tạo không gian thoáng hơn cho cụm công nghiệp phát triển.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Chiều 17/4, tại Hà Nội, Ban Chỉ đạo 35 Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương tổ chức Hội nghị giao ban quý 2/2024.

Tin cùng chuyên mục

Kỳ cuối:

Kỳ cuối: 'Rút ngắn' khoảng cách thương mại xuyên biên giới

Để hiện thực hoá giấc mơ đưa hàng Việt xuyên biên giới cần bản lĩnh "dám mơ lớn" của chính doanh nghiệp và sự hỗ trợ từ cơ quan quản lý Nhà nước và Chính phủ.
Bài 3: Xây dựng thương hiệu: Kinh nghiệm của các nước và bài học cho Việt Nam

Bài 3: Xây dựng thương hiệu: Kinh nghiệm của các nước và bài học cho Việt Nam

Cà phê Colombia, THAI’S RICE;… là những thương hiệu được nhiều người tiêu dùng trên thế giới biến đến. Kinh nghiệm của các nước cũng là bài học cho Việt Nam.
Bài 2: Bộ Công Thương nỗ lực "xây nền chính sách" cho phát triển cụm công nghiệp

Bài 2: Bộ Công Thương nỗ lực "xây nền chính sách" cho phát triển cụm công nghiệp

Trên cơ sở chủ trương, Nghị quyết của Đảng, là đơn vị trực tiếp quản lý, Bộ Công Thương kịp thời điều chỉnh, ban hành chính sách cho phát triển cụm công nghiệp.
Cục QLTT Thanh Hóa phát huy vai trò của cán bộ đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Cục QLTT Thanh Hóa phát huy vai trò của cán bộ đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Phát huy vai trò của cán bộ đảng viên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đã được Cục QLTT tỉnh Thanh Hóa triển khai có hiệu quả trong thời gian qua.
Bài 1: Phát triển cụm công nghiệp: Từ chủ trương đúng đắn của Đảng đến quyết liệt trong triển khai thực hiện

Bài 1: Phát triển cụm công nghiệp: Từ chủ trương đúng đắn của Đảng đến quyết liệt trong triển khai thực hiện

Từ Nghị quyết của Đảng đến sự quyết liệt triển khai trong thực tế, cụm công nghiệp đã và đang góp sức vào công cuộc công nghiệp hóa nông thôn.
Kỳ 3: Hành trình đưa sản phẩm Việt ra thế giới

Kỳ 3: Hành trình đưa sản phẩm Việt ra thế giới

Từ doanh thu tăng trưởng vượt mong đợi, doanh nghiệp cho rằng, sàn thương mại điện tử đóng vai trò quan trọng trong hành trình đưa sản phẩm Việt ra quốc tế.
Bài 2 - Tăng năng suất lao động: Yếu tố quan trọng để phát triển bền vững

Bài 2 - Tăng năng suất lao động: Yếu tố quan trọng để phát triển bền vững

Việt Nam từng có tốc độ tăng GDP nhanh nhất thế giới, để duy trì kỳ tích này, chìa khóa cần nắm chắc là tăng năng suất lao động.
Bài 2: Xây dựng thương hiệu: Nút thắt do đâu?

Bài 2: Xây dựng thương hiệu: Nút thắt do đâu?

Xây dựng thương hiệu nông sản có 3 cấp độ gồm: doanh nghiệp; ngành hàng/địa phương; quốc gia. Tuy nhiên, ở cả 3 cấp độ này đều đang rất vướng.
Bài 1: Khoảng lặng của hạt gạo Việt

Bài 1: Khoảng lặng của hạt gạo Việt

Dù Việt Nam đang là quốc gia xuất khẩu nằm trong Top 3 về sản lượng, nhưng tên tuổi hay sự nhận diện thương hiệu gạo Việt vẫn còn khá mờ nhạt.
Bài 1: Năng suất lao động của Việt Nam đứng ở đâu?

Bài 1: Năng suất lao động của Việt Nam đứng ở đâu?

Nâng cao năng suất lao động là con đường ngắn nhất để đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững với tất cả các quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Kỳ 2: "Giai đoạn vàng" để xuất khẩu trực tuyến tăng tốc

Kỳ 2: "Giai đoạn vàng" để xuất khẩu trực tuyến tăng tốc

Xuất khẩu trực tuyến-thương mại điện tử xuyên biên giới đang mở ra cơ hội cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường toàn cầu, là thời cơ 'vàng' để hàng Việt vươn xa.
Kỳ 1: Bệ đỡ cho hàng Việt vươn xa toàn cầu

Kỳ 1: Bệ đỡ cho hàng Việt vươn xa toàn cầu

Nhờ tận dụng thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, từ một ngành non trẻ, thương mại điện tử đã trở thành 'trợ thủ' dẫn dắt nền kinh tế số Việt Nam.
Nhiều đóng góp có giá trị vào Đề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới

Nhiều đóng góp có giá trị vào Đề cương chi tiết Báo cáo Tổng kết 40 năm đổi mới

Phiên họp thứ hai Ban Chỉ đạo Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN trong 40 năm qua ở Việt Nam đã diễn ra.
Longform | Bài 3: Để doanh nghiệp dân tộc có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng

Longform | Bài 3: Để doanh nghiệp dân tộc có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng

Làm sao để phát triển doanh nghiệp dân tộc, có quy mô lớn, đóng vai trò dẫn dắt một số ngành trọng yếu và có vị thế quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu?
Bài 4: Tạo bệ phóng cho khoa học và công nghệ tăng tốc

Bài 4: Tạo bệ phóng cho khoa học và công nghệ tăng tốc

Để khoa học và công nghệ thực sự là động lực cho phát triển kinh tế, nhiều ý kiến nhận định, cần tiếp tục khơi thông những vướng mắc về cơ chế, chính sách.
Longform |Bài 2: Doanh nghiệp “chung vai” chia sẻ khó khăn cùng đất nước

Longform |Bài 2: Doanh nghiệp “chung vai” chia sẻ khó khăn cùng đất nước

Không chỉ lớn mạnh về lượng và chất, những năm qua, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đã khẳng định vai trò trong việc “chung vai” chia sẻ khó khăn cùng đất nước.
Bài 3: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong cung cấp điện, xây dựng cơ chế giá điện

Bài 3: Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trong cung cấp điện, xây dựng cơ chế giá điện

Đảm bảo cung ứng điện, giữ vững an ninh năng lượng quốc gia đóng vai trò quyết định thành công của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Bài 3: Hướng đến sản xuất thông minh, làm chủ công nghệ 4.0

Bài 3: Hướng đến sản xuất thông minh, làm chủ công nghệ 4.0

Việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ 4.0 đã được ngành Công Thương triển khai một cách mạnh mẽ, trở thành giải pháp cấp bách, có tính sống còn.
Bài 2: Minh bạch, kịp thời - không để xảy ra khoảng trống thông tin

Bài 2: Minh bạch, kịp thời - không để xảy ra khoảng trống thông tin

Dự báo đúng nên ngay từ đầu năm 2023, Bộ Công Thương đã chỉ đạo EVN, các cục, vụ kịp thời cung cấp thông tin đến người dân và xã hội về tình hình sản xuất điện.
Bài 2: Gieo nỗ lực, gặt thành công trong nghiên cứu khoa học

Bài 2: Gieo nỗ lực, gặt thành công trong nghiên cứu khoa học

Với nỗ lực cống hiến không ngừng nghỉ của các nhà khoa học, đơn vị nghiên cứu, hoạt động khoa học và công nghệ ngành Công Thương đang cho những “trái ngọt”.
Xem thêm
Mobile VerionPhiên bản di động