Nhằm đẩy mạnh hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động, ngày 11/4/1992, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị quyết số 120/HĐBT về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm, trong đó có quy định về việc thành lập Quỹ quốc gia về giải quyết việc làm (nay là Quỹ quốc gia về việc làm) để cho vay tín dụng ưu đãi đối với cơ sở sản xuất kinh doanh nhỏ, hộ gia đình.
Đặc biệt, vừa qua Chính phủ đã ban hành Nghị định số 74/2019/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2015/NĐ-CP (có hiệu lực ngày 8/11/2020) với 6 nội dung sửa đổi lớn về mức vốn, lãi suất vay, thời hạn vay, điều kiện bảo đảm tiền vay, thủ tục cho vay và phân bổ nguồn vốn bổ sung cho quỹ nhằm tạo cơ chế thuận lợi cho Ngân hàng Chính sách xã hội (CSXH) Việt Nam tăng cường các nguồn lực huy động, cải cách thủ tục, tạo thuận lợi cho đối tượng vay, góp phần hạn chế nạn “tín dụng đen”.
Theo đó, nguồn vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm đã góp phần quan trọng hỗ trợ giải quyết việc làm, nhất là giải quyết việc làm tại chỗ và nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn, góp phần hiệu quả trong công tác giảm nghèo nhanh, bền vững.
Quỹ quốc gia về việc làm trụ cột để giảm nghèo bền vững |
Tại Hội thảo nâng cao hiệu quả hoạt động vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm tổ chức tháng 11/2020, báo cáo của Ngân hàng CSXH Việt Nam cho biết, tính đến ngày 31/10, tổng nguồn vốn vay hỗ trợ tạo việc làm là gần 30 nghìn tỷ đồng, với hơn 2,8 triệu lượt khách hàng vay vốn, giúp cho hơn 4,3 triệu người được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm. Nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm được khách hàng sử dụng hiệu quả, nợ quá hạn của nguồn vốn là 44 tỷ đồng, bằng 0,15% tổng dư nợ.
Trong tổng số vốn cho vay giải quyết việc làm, nguồn vốn của Quỹ quốc gia về việc làm 4.564 tỷ đồng; nguồn vốn Ngân hàng CSXH Việt Nam huy động đạt 11.584 tỷ đồng và nguồn ủy thác của địa phương qua Ngân hàng CSXH Việt Nam là 13.733 tỷ đồng. Đối với 7 tổ chức chính trị, xã hội tham gia thực hiện chương trình gồm: Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Người mù Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Liên minh Hợp tác xã đã giúp hội viên, đoàn viên, thành viên thuận lợi tiếp cận vốn vay ưu đãi, đầu tư phát triển sản xuất, giải quyết việc làm.
Ngoài ra, tính hết tháng 6/2020, tổng nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm của 14 tỉnh khu vực trung du, miền núi phía Bắc là gần 2.500 tỷ đồng (chiếm khoảng 8,7% cả nước). Trong đó, nguồn vốn từ Quỹ quốc gia giải quyết việc làm là hơn 967 tỷ đồng, của Ngân hàng CSXH Việt Nam là hơn 723 tỷ đồng, nguồn ủy thác của địa phương qua Ngân hàng CSXH Việt Nam là hơn 791 tỷ đồng. 9 tháng đầu năm 2020, nguồn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm và nguồn huy động của Ngân hàng CSXH tại 14 tỉnh khu vực trung du, miền núi phía Bắc đã cho vay 11.122 dự án; hỗ trợ, tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho gần 40.000 lao động.
Bà Hoàng Thị Chương, Phó Giám đốc Ban Tín dụng học sinh, sinh viên và các đối tượng chính sách khác, Ngân hàng CSXH Việt Nam - cho hay, những năm qua, Ngân hàng CSXH Việt Nam đã tập trung mọi nguồn lực, đẩy mạnh thực hiện các chương trình tín dụng chính sách nói chung và cho vay hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm nói riêng. Đến nay đã góp phần tích cực giải quyết cho trên 4,3 triệu lao động có việc làm với hơn 2,8 triệu lượt khách hàng được vay vốn.
Đặc biệt, bà Chương nhấn mạnh, Ngân hàng CSXH Việt Nam đã thực hiện tốt việc cấp tín dụng chính sách cho các đối tượng thụ hưởng ở khắp các vùng miền, thông qua mô hình tổ chức và phương thức chuyển tải vốn tín dụng đặc thù của mình. Nguồn vốn tín dụng chính sách đã được đầu tư đến 100% các xã, phường, thị trấn trên toàn quốc. “Trong thời gian bị ảnh hưởng do đại dịch Covid-19, ngân hàng đã kịp thời triển khai đồng bộ các giải pháp, chỉ đạo ngân hàng các địa phương thực hiện chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch, áp dụng chính sách gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ” - bà Chương thông tin.
Với những kết quả đạt được đã cho thấy, chính sách tín dụng tiếp tục khẳng định là một trụ cột quan trọng của Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững. Trong điều kiện kinh tế còn khó khăn, nhưng Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã luôn quan tâm tạo lập nguồn vốn để tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình vay vốn ưu đãi đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội.
Tuy nhiên, bà Nguyễn Thị Quyên - Phó Cục trưởng Cục Việc làm - cho rằng, bên cạnh các kết quả đạt được, chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm hiện vẫn còn một số hạn chế, khó khăn, như hoạt động cho vay chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, do đó hiệu quả tạo việc làm, hiệu quả vốn đầu tư thấp; đối tượng được vay chủ yếu là các gia đình, các cơ sở sản xuất, kinh doanh tiếp cận được nguồn vốn còn ít; tổng nguồn vốn còn hạn hẹp, chưa đáp ứng nhu cầu cần vay rất lớn của doanh nghiệp, người lao động.
Chia sẻ thêm về bất cập trong quy định cho vay từ Quỹ quốc gia về việc làm, theo bà Hoàng Thị Chương, quy định tại Luật Việc làm, nơi thực hiện dự án và nơi cư trú của người lao động phải cùng thuộc địa bàn một xã. Nhưng thực tế, có nhiều lao động ở xã này, lại có dự án đầu tư ở xã khác thì không vay được vốn theo chương trình này, đó là một nội dung cần thay đổi trong Luật Việc làm 2013.
Để nâng cao hiệu quả và bảo đảm chất lượng tín dụng hỗ trợ tạo việc làm của Nhà nước qua Ngân hàng CSXH Việt Nam, đồng thời đánh giá các quy định pháp luật về chính sách tín dụng ưu đãi để đề xuất sửa đổi, bổ sung trong Luật Việc làm, tới đây Cục Việc làm sẽ phối hợp với Cục Quản lý lao động ngoài nước, Ban tín dụng học sinh, sinh viên và các đối tượng chính sách khác tổ chức các hội thảo tại từng khu vực, nhằm đánh giá tổng thể hoạt động của chính sách tín dụng ưu đãi tạo việc làm thời gian qua và đề xuất sửa đổi trong giai đoạn tới.
Trong giai đoạn tới, thị trường lao động sẽ đa dạng và linh hoạt hơn, vì vậy chính sách tín dụng ưu đãi được Cục Việc làm kiến nghị là cần có sự linh hoạt trong việc cho vay vốn đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội. Đồng thời các địa phương cần tập trung huy động nguồn lực, triển khai thực hiện Nghị định số 74 đạt hiệu quả tích cực, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, của người nghèo và các đối tượng chính sách khác trong phạm vi cả nước. |