Thực hiện tốt trách nhiệm mở rộng sản xuất - thúc đẩy kinh tế tuần hoàn Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất: Từ chính sách đến thực thi |
Tín hiệu tích cực
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) được quy định tại Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 và Nghị định số 08/2022/NÐ-CP của Chính phủ. Theo đó, kể từ ngày 1/1/2024, các nhà sản xuất, nhập khẩu sản phẩm dầu nhớt, pin, ắc quy, xăm lốp và các loại bao bì thương mại phải thực hiện tái chế hoặc đóng phí hỗ trợ hoạt động tái chế chất thải.
Từ ngày 1/1/2025, nhà sản xuất, nhập khẩu sản phẩm điện, điện tử thực hiện trách nhiệm tái chế; từ ngày 1/1/2027, nhà sản xuất, nhập khẩu phương tiện giao thông (ô tô, xe máy) thực hiện trách nhiệm tái chế.
EPR hướng đến khuyến khích quản lý vật liệu theo phương thức tuần hoàn, trong đó các sản phẩm, bao bì thải bỏ được thu hồi, tái chế, tái sử dụng để tạo ra các sản phẩm mới thay vì được đưa đến các bãi chôn lấp.
Các diễn giả tham gia tọa đàm |
Chia sẻ tại tọa đàm “Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất: Từ chính sách đến thực thi'', diễn ra mới đây, ông Nguyễn Thi - diễn giả đến từ Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường - cho biết, Chính phủ đã có những quy định về EPR. Thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đã triển khai nhiều giải pháp, tổ chức các buổi tập huấn, tọa đàm để triển khai quy định, tạo điều kiện cho doanh nghiệp theo tinh thần cải cách hành chính; giảm bớt gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp; trong đó có sửa đổi quy định EPR theo hướng cho phép doanh nghiệp thực hiện tái chế phù hợp hơn với thực tiễn.
Đại diện Vụ Pháp chế, Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đánh giá cao việc doanh nghiệp đã tích cực tham gia, tuân thủ cam kết thực hiện EPR. Tuy nhiên, vị diễn giả này còn băn khoăn doanh nghiệp thực hiện theo hình thức đối phó hay có trách nhiệm với xã hội? Vì nếu thực hiện theo hình thức đối phó thì hiệu quả sẽ không cao.
Tại diễn đàn, bà Chu Thị Kim Thanh - Giám đốc Vận hành Công ty Cổ phần tái chế bao bì PRO Việt Nam – thông tin, PRO Việt Nam hiện có 23 thành viên, từ 2019 - 2023 khi Luật chưa bắt buộc EPR thì các thành viên PRO Việt Nam đã bắt đầu thực thi dần trên tình thần tự nguyện, cụ thể năm 2022 đã thử nghiệm chạy thu gom tái chế bao bì được hơn 3 nghìn tấn bao bì các loại, năm 2023 được gần 14 nghìn, năm 2024 dự kiến sẽ thu gom tái chế khoảng 70 nghìn tấn bao bì các loại.
Ông Lê Anh - Giám đốc Phát triển bền vững Công ty CP Nhựa tái chế Duy Tân – mang đến tin vui thực tế tại Công ty CP Nhựa tái chế Duy Tân khi làm sản phẩm xanh nên đã có 60% sản phẩm xuất khẩu hạt nhựa sang các nước châu Âu. Ông cũng đồng thời nhấn mạnh: “EPR là lợi thế cạnh tranh quốc gia”.
Cùng ở góc độ kinh tế, ông Nguyễn Trung Anh - Giám đốc Phát triển bền vững và Đổi mới sáng tạo thuộc PAN Group – chia sẻ: Tập đoàn đưa EPR vào chiến lược phát triển bền vững từ rất sớm. Đối với cả các công ty thành viên, từ sớm đã có những chương trình nhằm đáp ứng được tư duy logic về EPR, ví dụ ở nhà máy sản xuất bánh kẹo đã có thiết kế bao bì, trong đó hướng dẫn người tiêu dùng cách phân loại tái chế các bao bì. Hoặc tại công ty xuất khẩu tôm, đã thành lập quỹ tái chế. Trong 2 năm vừa qua, tại công ty xuất khẩu tôm đã thu gom được khoảng 4 nghìn tấn rác thải nhựa, con số tuy nhỏ nhưng đã tác động đến những người lao động ý thức phát triển bền vững.
Đồng tình với định hướng EPR của chính phủ, EPR không chỉ là trách nhiệm mà còn là cơ hội để doanh nghiệp phát triển bền vững hơn. Việc thực hiện EPR sẽ giúp doanh nghiệp đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của đối tác, từ đó có cơ hội tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, các diễn giả cũng bày tỏ, lộ trình thực hiện EPR cần sự chia sẻ, đồng hành không chỉ của khối doanh nghiệp, nhà nước mà cần cả cộng đồng cùng vào cuộc.
Khuyến nghị cho Việt Nam
EPR hiện đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới để kiểm soát chất thải thải ra môi trường nhưng Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á đầu tiên áp dụng công cụ này. Vì vậy, đây cũng là một thách thức, bởi các quy định, quy trình mới luôn cần thời gian để triển khai, thực thi một cách thông suốt và hiệu quả.
Chia sẻ kinh nghiệm triển khai EPR từ quốc tế, ông Hoàng Thành Vĩnh - cán bộ Chương trình phụ trách chất thải và kinh tế tuần hoàn, UNDP Việt Nam - cho biết, thực tiễn Việt Nam và các nước trong khu vực nổi lên một số khó khăn, thách thức như thiếu cơ sở hạ tầng thu gom tốt, trong khi nhu cầu với các dòng tái chế như nhựa tái chế chưa cao, bên cạnh nhận thức về chất thải và quản lý chất thải còn hạn chế.
Nhấn mạnh đây là thách thức đặc thù không chỉ của Việt Nam mà cả các nước trong khu vực, chuyên gia UNDP khuyến nghị, nhà nước cần đầu tư thêm nguồn lực để hỗ trợ hoạt động thu gom được tốt hơn, với mục tiêu tăng tỷ lệ tái chế và hàm lượng tái chế trong sản phẩm. Bên cạnh đó, cần có biện pháp khuyến khích, tăng cường sự tham gia của cộng đồng, đẩy mạnh các mô hình cộng đồng đã được chứng minh có hiệu quả trong hoạt động thu gom, tái chế; nâng cao nhận thức, góp phần giúp cộng đồng tiếp nhận mạnh mẽ hơn các sản phẩm tái chế...
Là quốc gia luôn ưu tiên việc quản lý chất thải bền vững để thúc đẩy nền kinh tế xanh và tuần hoàn, bà Mette Moglestue - Phó Đại sứ Na Uy tại Việt - cho biết, ở Na Uy, người tiêu dùng mua đồ uống đóng chai sẽ phải đặt cọc và khi trả lại chai họ sẽ nhận lại số tiền đặt cọc đó. "Có tới 90% các chai như vậy đã quay trở lại điểm thu hồi. Đây cũng chính là bài học thành công có thể được áp dụng ở Việt Nam trong thời gian tới", bà Mette Moglestue gợi ý.
Bà Mette Moglestue cho biết thêm, những chai như vậy hoàn toàn sạch, được tái sử dụng, đóng gói thực phẩm. Các cộng đồng như trường học, nhóm thể thao ở Na Uy đã tích cực thu gom, tái chế nhằm huy động vốn, góp quỹ, thúc đẩy tinh thần cộng đồng và nâng cao tầm quan trọng của tái chế, cũng tuyên truyền vấn đề này cho học sinh ngay từ trên ghế nhà trường.
Ở Na Uy, EPR là một trong những công cụ tốt nhất đã được chứng minh để thực hiện nguyên tắc bên gây ô nhiễm phải trả tiền và đây là cách giúp cho khu vực tư nhân nâng cao trách nhiệm của mình nhưng vẫn có thể đảm bảo được nguồn tài chính bền vững, ổn định.
Tuy nhiên, EPR tác động quan trọng không chỉ trong lĩnh vực môi trường mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy hợp tác trong chuỗi tái chế tạo cơ hội việc làm, mở rộng thị trường cho các sản phẩm được tái chế. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững thì cần phải có sự hợp lực cũng như hợp tác quốc tế, điều đó có vai trò hết sức quan trọng trong tất cả các bên, trong đó có các doanh nghiệp, chính phủ, các bộ, ngành cần chung tay để tìm ra giải pháp có thể đạt được mục tiêu chung; có quá trình đối thoại thường xuyên, liên tục; tăng cường cơ chế trách nhiệm của nhà sản xuất.
Một lần nữa, bà Mette Moglestue đánh giá cao khi Việt Nam là một trong những quốc gia Đông Nam Á đầu tiên áp dụng công cụ này. Bà nhấn mạnh, ở Việt Nam, lực lượng thu gom chất thải phi chính thức vô cùng quan trọng. Khi chúng ta thu hút sự tham gia của người lao động trong khu vực phi chính thức sẽ là bước quan trọng để đạt được quá trình công bằng trong chuyển đổi.