Xác định các trường hợp không bị coi là trốn đóng
Chính phủ ban hành Nghị định số 274/2025/NĐ-CP ngày 16/10/2025 quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về chậm đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; khiếu nại, tố cáo về bảo hiểm xã hội.
Nghị định gồm 4 chương, 16 điều và có hiệu lực từ ngày 30/11/2025.

Theo Nghị định, các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 39 của Luật Bảo hiểm xã hội không bị coi là trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp khi xảy ra sự kiện bất khả kháng do cơ quan có thẩm quyền công bố.
Các trường hợp bao gồm: Thiên tai như bão, lũ, ngập lụt, động đất, hỏa hoạn lớn, hạn hán kéo dài và các loại thiên tai khác gây ảnh hưởng trực tiếp, nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh; dịch bệnh nguy hiểm gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và khả năng tài chính của người sử dụng lao động; tình trạng khẩn cấp theo quy định của pháp luật; các sự kiện bất khả kháng khác theo pháp luật dân sự.
Trong các trường hợp này, số tiền bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm thất nghiệp chậm đóng sẽ được xác định theo trách nhiệm của người sử dụng lao động trong thời gian chưa tham gia, không bị tính là hành vi trốn đóng.
Cách tính số tiền và số ngày chậm đóng, trốn đóng
Nghị định 274/2025 quy định rõ cách xác định số tiền và thời gian chậm đóng theo khoản 1 Điều 40 Luật Bảo hiểm xã hội. Số tiền chậm đóng là phần thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động phải nộp sau thời hạn quy định về đăng ký, tham gia và đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp. Số ngày chậm đóng được tính từ ngày sau thời hạn đăng ký tham gia và thời hạn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp chậm nhất theo luật định.
Đối với hành vi trốn đóng, số tiền và số ngày được xác định theo khoản 1 Điều 41 của Luật Bảo hiểm xã hội. Các trường hợp bao gồm: Không đăng ký tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động sau 60 ngày kể từ thời hạn phải tham gia; đăng ký mức tiền lương thấp hơn quy định làm căn cứ đóng; không đóng sau 60 ngày kể từ thời hạn cuối cùng, dù đã được cơ quan có thẩm quyền đôn đốc.
Số ngày trốn đóng được tính từ thời điểm hết hạn đóng chậm nhất theo quy định hoặc từ sau khi có văn bản đôn đốc của cơ quan có thẩm quyền. Với trường hợp đóng theo chu kỳ tháng, quý hoặc 6 tháng, thời điểm tính ngày trốn đóng được xác định sau ngày cuối cùng của tháng tiếp theo kỳ đóng.
Cơ quan bảo hiểm xã hội trực tiếp quản lý có trách nhiệm xác định hành vi chậm đóng, trốn đóng; áp dụng hoặc trình cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định. Hằng tháng, cơ quan bảo hiểm sẽ xác định số tiền và số ngày chậm đóng, trốn đóng và tính mức 0,03%/ngày trên số tiền này. Sau đó, cơ quan bảo hiểm thông báo cho người sử dụng lao động để đối chiếu, tổ chức thu và quản lý theo đúng quy định pháp luật.