Quảng Ngãi đứng trước cơ hội lớn từ thị trường tín chỉ carbon rừng

Với hơn 881.600 ha rừng, mỗi năm, Quảng Ngãi có thể tạo ra khoảng 2 triệu tấn carbon, mở ra nguồn thu hơn 10 triệu USD từ thị trường tín chỉ.

Tiềm năng lớn từ tài nguyên rừng

Với diện tích rừng lớn và trữ lượng hấp thụ carbon dồi dào, tỉnh Quảng Ngãi đang được đánh giá là một trong những địa phương có nhiều tiềm năng tham gia thị trường tín chỉ carbon rừng. Nếu được khai thác hiệu quả, đây không chỉ là nguồn thu mới cho ngành lâm nghiệp mà còn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Với độ che phủ rừng lớn, mỗi năm, hệ sinh thái rừng của tỉnh Quảng Ngãi có khả năng hấp thụ khoảng 2 triệu tấn carbon. Ảnh: Nguyễn Dương

Với độ che phủ rừng lớn, mỗi năm, hệ sinh thái rừng của tỉnh Quảng Ngãi có khả năng hấp thụ khoảng 2 triệu tấn carbon. Ảnh: Nguyễn Dương

Theo thống kê, toàn tỉnh Quảng Ngãi hiện có hơn 881.600 ha rừng, trong đó, rừng tự nhiên chiếm khoảng 659.000 ha, rừng trồng hơn 222.600 ha. Với độ che phủ rừng lớn, mỗi năm hệ sinh thái rừng của tỉnh có khả năng hấp thụ khoảng 2 triệu tấn carbon. Theo phương pháp tính toán của Cục Lâm nghiệp, nếu đưa ra thị trường, lượng carbon này có thể mang lại giá trị hơn 10 triệu USD mỗi năm.

Ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi cho biết, thị trường carbon được hình thành từ Nghị định thư Kyoto của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, thông qua năm 1997. Từ đó, carbon dần trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, được mua bán và trao đổi thông qua các chứng chỉ giảm hoặc hấp thụ phát thải khí nhà kính. Trong lĩnh vực lâm nghiệp, tín chỉ carbon rừng được tạo ra từ các hoạt động như giảm mất rừng, suy thoái rừng; trồng rừng, tái trồng rừng; tái tạo thảm thực vật và tăng cường quản lý rừng bền vững.

Để đảm bảo hành lang pháp lý, dự án phải đáp ứng nhiều tiêu chí nghiêm ngặt, trong đó có việc chứng minh lịch sử sử dụng đất trong nhiều năm trước đó. Ảnh: Nguyễn Dương

Để đảm bảo hành lang pháp lý, dự án phải đáp ứng nhiều tiêu chí nghiêm ngặt, trong đó có việc chứng minh lịch sử sử dụng đất trong nhiều năm trước đó. Ảnh: Nguyễn Dương

Với lợi thế tự nhiên sẵn có, Quảng Ngãi được đánh giá là địa phương có dư địa lớn để tham gia thị trường tín chỉ carbon rừng. Việc phát triển thị trường này không chỉ góp phần nâng cao giá trị kinh tế của rừng mà còn tạo thêm động lực cho các chủ rừng và cộng đồng địa phương tham gia bảo vệ rừng bền vững.

Theo ông Nguyễn Văn Nam, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Quảng Ngãi, nguồn thu từ tín chỉ carbon rừng sẽ mang lại lợi ích kép cho địa phương. “Nguồn thu này sẽ góp phần quan trọng cho công tác bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời tạo thêm sinh kế cho cộng đồng nhận khoán bảo vệ rừng, nhất là ở khu vực miền núi”, ông Nam cho hay.

Hoàn thiện hành lang pháp lý

Để tham gia thị trường carbon, công tác kiểm kê, đo đạc và theo dõi trữ lượng carbon rừng được xem là nền tảng quan trọng. Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi đang triển khai điều tra sinh khối và trữ lượng carbon rừng theo các quy định chuyên ngành của Bộ Nông nghiệp và Môi trường. Việc tính toán trữ lượng carbon được thực hiện thông qua đo đạc trực tiếp tại các ô mẫu điều tra hoặc quy đổi gián tiếp từ sinh khối rừng, bảo đảm phản ánh sát thực tế hiện trạng rừng.

Công tác đo đạc, giám sát trữ lượng carbon rừng đòi hỏi nguồn nhân lực chuyên môn và kinh phí lớn. Ảnh: Nguyễn Dương

Công tác đo đạc, giám sát trữ lượng carbon rừng đòi hỏi nguồn nhân lực chuyên môn và kinh phí lớn. Ảnh: Nguyễn Dương

Tuy nhiên, việc triển khai và kinh doanh tín chỉ carbon rừng hiện vẫn đối mặt với nhiều khó khăn. Trước hết là yêu cầu khắt khe về phương pháp luận và tính hợp lệ của dự án. Khu vực thực hiện dự án phải đáp ứng nhiều tiêu chí nghiêm ngặt, trong đó có việc chứng minh lịch sử sử dụng đất trong nhiều năm trước đó. Đây là thách thức không nhỏ, nhất là ở các khu vực rừng xa xôi, hồ sơ lưu trữ còn hạn chế.

Bên cạnh đó, công tác đo đạc, giám sát trữ lượng carbon rừng đòi hỏi nguồn nhân lực chuyên môn và kinh phí lớn. Đặc thù rừng nhiệt đới với sự đa dạng về loài cây, địa hình và môi trường khiến việc ước tính lượng carbon hấp thụ trở nên phức tạp, buộc nhiều khu vực phải tổ chức đo đạc thực địa để hiệu chỉnh số liệu, làm gia tăng chi phí và thời gian thực hiện.

Một khó khăn khác là rủi ro trong quá trình triển khai dự án. Các yếu tố như sâu bệnh, cháy rừng, thiên tai có thể làm suy giảm trữ lượng carbon. Trong khi đó, thời gian thực hiện các dự án tín chỉ carbon rừng thường kéo dài từ 20 đến 100 năm, đòi hỏi sự cam kết lâu dài và nỗ lực bền bỉ của các bên liên quan.

Hiện tại, hành lang pháp lý liên quan đến việc bán tín chỉ carbon vẫn cần được hoàn thiện. Từ đó, tạo nguồn thu ổn định cho công tác bảo vệ rừng. Ảnh: Nguyễn Dương

Hiện tại, hành lang pháp lý liên quan đến việc bán tín chỉ carbon vẫn cần được hoàn thiện. Từ đó, tạo nguồn thu ổn định cho công tác bảo vệ rừng. Ảnh: Nguyễn Dương

Liên quan đến cơ chế phân chia lợi ích từ tín chỉ carbon rừng, hiện nay, Chính phủ chưa ban hành quy định cụ thể. Tuy nhiên, theo định hướng đang được thảo luận, cơ chế này có thể được xây dựng tương tự chi trả dịch vụ môi trường rừng, nhằm bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, các chủ rừng và cộng đồng dân cư nhận khoán bảo vệ rừng.

Theo ông Nguyễn Văn Nam, để thị trường tín chỉ carbon rừng thực sự đi vào thực tế, cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý. “Ngành lâm nghiệp rất kỳ vọng Chính phủ sớm ban hành nghị định quy định về dịch vụ hấp thụ và lưu giữ carbon của rừng. Khi có cơ sở pháp lý rõ ràng, các địa phương sẽ thuận lợi hơn trong việc xây dựng và triển khai dự án, tiến tới bán tín chỉ carbon, tạo nguồn thu ổn định cho công tác bảo vệ rừng”, ông Nam nhấn mạnh.

Toàn tỉnh Quảng Ngãi hiện có hơn 881.600 ha rừng, trong đó, rừng tự nhiên chiếm khoảng 659.000 ha, rừng trồng hơn 222.600 ha. Với độ che phủ rừng lớn, mỗi năm, hệ sinh thái rừng của tỉnh có khả năng hấp thụ khoảng 2 triệu tấn carbon.

Nguyễn Dương
Bình luận

Có thể bạn quan tâm