Hiện nay, Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới đã và đang đặt ra những lợi ích, kỳ vọng đồng thời cũng là những thách thức được báo trước, trong đó có vấn đề về PVTM.
Doanh nghiệp cần hiểu rõ nội dung PVTM trong RCEP để sẵn sàng ứng phó, bảo vệ thị trường nội địa |
Ông Lê Triệu Dũng - Cục trưởng Cục PVTM (Bộ Công Thương) cho biết, PVTM đang ngày càng trở nên phổ biến, là các biện pháp hợp pháp được Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cho phép nhằm bảo đảm sự cạnh tranh công bằng đối với hàng sản xuất trong nước và hàng hóa nhập khẩu. PVTM là “phao cứu hộ” doanh nghiệp khi đi ra "biển lớn", hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, ngay cả các nền kinh tế hội nhập, tự do nhất cũng là những nước có nền kinh tế sử dụng biện pháp PVTM nhiều nhất.
“Đây là công cụ phổ biến, yếu tố quan trọng trong môi trường kinh doanh thực tế. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu, sử dụng để bảo vệ lợi ích trên chính thị trường nội địa trước hoạt động cạnh tranh không lành mạnh của hàng hóa nhập khẩu.”- ông Lê Triệu Dũng cho hay.
Đối với RCEP, PVTM cũng được đặc biệt quan tâm, khi nội dung này được quy định tại chương 7 của Hiệp định. Về tổng thể, nội dung Chương PVTM của Hiệp định RCEP cơ bản phù hợp với các cam kết của Việt Nam ở WTO và pháp luật Việt Nam về phòng vệ thương mại. Các biện pháp gồm: Chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ toàn cầu được quy định theo hướng bảo lưu nghĩa vụ các bên theo cam kết WTO và bổ sung một số cam kết cụ thể về thông báo, tham vấn, cấm sử dụng phương pháp quy về không, công bố dữ liệu trọng yếu, xử lý thông tin mật và thủ tục thẩm tra tại chỗ.
Theo đánh giá của các chuyên gia, mặc dù, mức độ cam kết mở cửa tự do hóa của Hiệp định RCEP không cao hơn nhiều so với các Hiệp định ASEAN+ đã ký kết trước đây, nhưng với phạm vi đàm phán mở rộng với số lượng thành viên đối tác chiếm đến 30% dân số thế giới của Hiệp định RCEP sẽ đem lại cho doanh nghiệp trong nước những sức ép cạnh tranh nhất định đến từ hàng nhập khẩu.
Những thuận lợi về thương mại và đầu tư do kết quả đàm phán RCEP mang lại sẽ khiến cho hàng hóa xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và các đối tác gia tăng. Từ đó, có thể dự đoán rằng số lượng vụ việc PVTM giữa các thành viên RCEP có thể sẽ gia tăng.
Tuy nhiên, theo ông Lương Hoàng Thái – Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên – cho hay, ngoài mức độ cam kết phù hợp với trình độ phát triển kinh tế thì Hiệp định cũng đưa ra cơ chế tự vệ đặc biệt trong giai đoạn chuyển đổi để phòng trường hợp khi các nước cắt giảm thuế quan cho Hiệp định, gây ra xáo trộn nền kinh tế trong nước, thì các nước có quyền "dâng" lại thuế lên trước đó áp dụng và theo cơ chế này, các nước có khoảng thời gian tám năm áp dụng. Tức là, bất kể một số nước có nền kinh tế phát triển kém mà mở cửa, nếu như cạnh tranh nước ngoài ở mức quá cao thì được dừng lại hàng rào thuế quan.
“Cơ chế thứ hai, trong Hiệp định cho phép áp dụng những cơ chế mà được WTO cho phép, đó là công cụ: Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp hay là biện pháp tự vệ thông thường. Những cơ chế này được áp dụng vĩnh viễn, từ khi Hiệp định có hiệu lực.”- ông Lương Hoàng Thái cho hay.
Hiện nay, Bộ Công Thương có Đề án nâng cao năng lực PVTM trong bối cảnh Việt Nam tham gia các FTA thế hệ mới. Mặc dù, đã có những công cụ PVTM cần thiết để bảo vệ sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường nội địa, nhưng theo Bộ Công Thương, doanh nghiệp trong nước cũng cần chủ động thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, chuyển sức ép về cạnh tranh thành động lực để tự đổi mới và phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm để có lợi thế cạnh tranh không chỉ ở trong nước mà còn ở thị trường quốc tế.
Bên cạnh các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương, các doanh nghiệp, hiệp hội cần chủ động và tích cực tìm hiểu thông tin về các Hiệp định FTA để nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm, cũng như có kế hoạch và những bước đi cụ thể để cải thiện vị trí trong chuỗi giá trị khu vực.
Thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ theo dõi sát sao tình hình xuất nhập khẩu sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực để có biện pháp PVTM phù hợp trong những trường hợp hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh không công bằng, gây thiệt hại đáng kể để bảo vệ đến sản xuất trong nước. |