Phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam
- Tuy nhiên thực tế cho thấy, Việt Nam chưa thật sự quan tâm phát triển các ngành CNVH và tận dụng ưu thế văn hóa trong nỗ lực xây dựng kinh tế, tạo dựng vị thế đất nước.Nguy cơ tụt hậu Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tốc độ tăng trưởng của các ngành CNVH hằng năm cao hơn hai lần so với ngành công nghiệp dịch vụ và gấp bốn lần so với lĩnh vực sản xuất ở các nước phát triển và được định vị như một lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo ra ưu thế cạnh tranh tổng thể, thúc đẩy sự đổi mới, cũng như tạo sự cân bằng, đa dạng hơn cho nền kinh tế.
Các tổ chức, doanh nghiệp văn hóa đã và đang đóng vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thông qua tăng cường sự tích hợp giữa văn hóa - nghệ thuật với kinh doanh và công nghệ. Ngành công nghiệp điện ảnh, âm nhạc và truyện tranh của Hàn Quốc và Nhật Bản là thí dụ về sự thành công đó. Một cường quốc như Mỹ, từ nhiều thập niên trước đã đầu tư cho công nghiệp văn hóa như lĩnh vực kinh tế chiến lược, giúp khẳng định sự hiện diện của văn hóa Mỹ trên toàn cầu.
Trong bối cảnh như vậy, Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế chung của thế giới. Việc chưa chú trọng quan tâm phát triển các ngành CNVH sẽ khiến cho nước ta không chỉ tụt hậu hơn so với các quốc gia khác mà còn không tận dụng hết các ưu thế về văn hóa của mình trong nỗ lực gia tăng khả năng cạnh tranh và sức mạnh kinh tế cũng như tạo dựng hình ảnh đất nước, khẳng định vị thế quốc gia trên thế giới.
Ngày nay, trong thời đại toàn cầu hóa, sự phát triển của các quốc gia đều ảnh hưởng lẫn nhau, các ngành CNVH chính là tài sản chiến lược trong chính sách ngoại giao, hợp tác quốc tế, giúp củng cố tính độc đáo của quốc gia và đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy bản sắc văn hóa; đồng thời là công cụ hữu hiệu cho tăng trưởng, đổi mới kinh tế, biến văn hóa trở thành một thành tố quan trọng của thương mại và cạnh tranh quốc tế, giúp xây dựng nền kinh tế sáng tạo, bao gồm các lĩnh vực có giá trị kinh tế cao. Các ngành CNVH còn tạo ra "tác động lan tỏa", thúc đẩy sự phát triển của các ngành khác, tăng cường cố kết xã hội thông qua sự tham gia tích cực của các cộng đồng, các nhóm, cá nhân khác nhau vào hoạt động văn hóa, cung cấp những cơ hội để phát triển tài năng và tạo việc làm bền vững, góp phần thay đổi bộ mặt của địa phương.
Xây dựng các ngành CNVH sẽ khắc phục được những bất cập, yếu kém trong phát triển văn hóa ở Việt Nam như sự phụ thuộc vào bao cấp của Nhà nước, chưa biết cách huy động các nguồn lực trong xã hội; tăng kỹ năng quản lý và kinh doanh trong lĩnh vực văn hóa, tạo sự quan tâm đúng mức tới thị trường và công chúng, thúc đẩy hoạt động sáng tác của đội ngũ văn nghệ sĩ; tạo điều kiện để các tài năng bộc lộ, tiếp cận các kỹ năng và chuyên môn phù hợp.
Một nguy cơ là nước ta đang bị tụt hậu đáng kể trong phát triển các ngành CNVH trong khi những tiến bộ về hệ thống quản trị, công nghệ mới, nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực và môi trường hỗ trợ nói chung cho các ngành này trên thế giới không ngừng tăng tốc.
Các vấn đề vi phạm bản quyền, sự quan liêu kết hợp cùng nhau đã làm giảm sự tự tin và gây tác động tiêu cực, "dập tắt" tinh thần doanh nghiệp trong kinh doanh văn hóa, ảnh hưởng tiêu cực tới đóng góp của lĩnh vực văn hóa cho kinh tế - xã hội trong nước.
Việt Nam đang tiếp tục đổi mới, tăng cường hội nhập quốc tế, việc quan tâm phát triển các ngành CNVH là một trong những bước đi đột phá và là công cụ hiệu quả để văn hóa trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội, mở ra những thị trường mới cho các sản phẩm và dịch vụ sáng tạo; giúp tận dụng được tối đa những nguồn lực lớn. Đó là tài năng của dân số trẻ với sự sáng tạo, kết nối toàn cầu và vốn văn hóa truyền thống với bề dày hàng nghìn năm của dân tộc, là năng lực thích ứng nhanh nhạy và bền bỉ của người Việt Nam.
Những điểm nhấn quan trọng Các ngành CNVH được phát triển nhằm khai thác và phát huy những tiềm năng văn hóa Việt Nam, phục vụ kinh tế - xã hội và ổn định chính trị của đất nước. Sự phát triển đó phải dựa trên cơ sở hướng tiếp cận tổng thể và hệ thống, với nhiều vấn đề tương tác và có mối liên quan mật thiết đến nhau như: nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; xây dựng cơ chế tài chính, pháp lý, phát triển các chương trình giáo dục, đào tạo và các mạng lưới làm việc, phát triển công chúng... đòi hỏi sự hợp tác giữa các bộ, ngành các đối tác công và tư. Cách tiếp cận chiến lược tổng thể bao gồm sự cải tổ trong giáo dục, kỹ năng, hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển thương hiệu, thị trường và sự tích hợp với các ngành có liên quan khác. Đồng thời phải biết cân đối giữa lợi ích kinh doanh với các mục đích chính trị, văn hóa, giáo dục của văn hóa; nhận thức được sự tích hợp ngày càng cao giữa công nghệ, sáng tạo văn hóa và năng lực kinh doanh trong quá trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Để phát triển CNVH, cần tiến hành cải cách chọn lọc tinh hoa văn hóa truyền thống, kết hợp thực tiễn mới và yêu cầu thời đại, làm văn hóa theo sát sự chuyển đổi của thực tế đời sống, nhu cầu của quần chúng nhân dân, khơi dậy sức sáng tạo văn hóa của mọi thành viên trong xã hội, thúc đẩy sự kết hợp giữa phát triển văn hóa dân tộc với tiếp thu văn hóa ưu tú thế giới. Các ngành CNVH phải phát triển theo hướng chuyên nghiệp, có tính chuyên môn hóa cao và đồng bộ, đúng theo quy luật phát triển của CNVH thế giới; dựa trên đặc thù tình hình phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở các vùng miền, các địa phương khác nhau.
Nhà nước cần có chính sách khuyến khích để các ngành CNVH trong nước xuất khẩu sản phẩm văn hóa ra các thị trường nước ngoài, góp phần quảng bá văn hóa quốc gia, đưa thương hiệu Việt Nam ra với thế giới, chống lại những quyền lực xâm lược hay thôn tính về văn hóa; thực hiện hội nhập để học tập kinh nghiệm quốc tế, hợp tác sản xuất, cung ứng các sản phẩm - dịch vụ văn hóa Việt Nam. Công cuộc xây dựng và phát triển các ngành CNVH là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ những người tham gia sáng tạo văn hóa giữ vai trò quan trọng.
Ngành văn hóa, thể thao và du lịch đang gấp rút xây dựng chiến lược phát triển các ngành CNVH Việt Nam trong những năm trước mắt và về lâu dài.
Trong đó, cần quan tâm đến ba điểm nhấn đột phá để phát triển CNVH ở nước ta. Điểm nhấn quan trọng nhất là phát triển tài năng sáng tạo để Việt Nam phát huy được tối đa tài sản lớn nhất là dân số trẻ, đa dạng và tài năng; tạo ra công việc, truyền cảm hứng và đem lại sự tự tin; thúc đẩy một thế hệ mới của những người sản xuất và tiêu dùng văn hóa. Tiếp theo là phát triển năng lực sáng tạo nhằm đào tạo một thế hệ mới các tổ chức và doanh nghiệp văn hóa đạt tầm quốc tế về chất lượng, hướng đến công chúng và phù hợp hơn với xã hội đương đại, hiểu biết về kỹ thuật số, có ý thức về thiết kế, cởi mở và có tinh thần doanh nghiệp. Cuối cùng, Việt Nam cần xây dựng những khu đô thị và vùng sáng tạo để định vị văn hóa và sáng tạo như các thành tố then chốt của các thành phố lớn. Trong tầm nhìn chiến lược, chúng ta cần có một số thành phố có thể trở thành các trung tâm về CNVH và kinh tế sáng tạo của khu vực cũng như châu lục. Điều này sẽ giúp các thành phố nhỏ hơn và các khu vực nông thôn hưởng lợi từ các mạng lưới chuyên môn trong CNVH, thí dụ như phát triển các ngành thủ công mỹ nghệ, tạo dựng du lịch văn hóa, lễ hội.
Như vậy, phát triển các ngành CNVH hiện nay thật sự cần thiết, giúp Việt Nam tái cơ cấu mô hình tăng trưởng, tạo ra những sản phẩm - dịch vụ văn hóa có tính cạnh tranh cao. Đây cũng là chiến lược để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự dồi dào của hàng hóa - dịch vụ văn hóa Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế chính là sức mạnh mềm quan trọng của quốc gia, làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống người dân, cũng như mang thông điệp Việt Nam ra với thế giới, phát huy nội lực và quảng bá hình ảnh đất nước.
Theo Nhân dân