Công nghiệp hỗ trợ giữ vai trò rất quan trọng trong sản xuất, lắp ráp ôtô |
Chỉ đáp ứng 10% nhu cầu nội địa
Thực tế, bức tranh phát triển ngành CNHT của Việt Nam còn rất mờ nhạt. Đến nay, các DN (DN) trong nước mới cung ứng được khoảng 10% nhu cầu nội địa về sản phẩm CNHT. Giai đoạn 2011 - 2015, trừ công nghiệp xe máy và một số sản phẩm điện tử gia dụng có tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước khá cao, các lĩnh vực còn lại, tỷ lệ nội địa hóa thấp. Trong khi đó, đầu tư của các DN FDI chiếm trên 80% số DN sản xuất linh kiện phụ tùng của Việt Nam, tập trung vào linh kiện điện - điện tử và linh kiện kim loại.
Những con số dưới đây cho thấy việc đầu tư phát triển ngành CNHT hiện nay là cần thiết và cấp bách. Theo đó, kim ngạch nhập khẩu linh kiện, phụ tùng những năm qua là rất lớn: Năm 2015 đạt khoảng 54 tỷ USD, tăng 14,7% so với năm 2014 (linh kiện máy vi tính, sản phẩm điện tử khoảng 21 tỷ USD, tăng 12,9%; linh kiện điện thoại đạt 10 tỷ USD, tăng 29,7%; linh kiện phụ tùng ô tô đạt 3 tỷ USD, tăng 37,6%; dây điện và dây cáp điện đạt 1 tỷ USD, tăng 9,9%; nguyên phụ liệu ngành dệt may, da giày đạt 18,3 tỷ USD, tăng 7%), tương đương 1,2 triệu tỷ đồng. Hiện tại, các DN trong nước mới cung ứng được 10% nhu cầu tương ứng với giá trị 140.000 tỷ đồng.
Năm 2015, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm khoảng 49%, ngành khai khoáng chiếm khoảng 35% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Tuy nhiên đóng góp vào GDP của ngành chế biến, chế tạo (14%) chỉ hơn khoảng 4% so với công nghiệp khai khoáng (10%). Nguyên nhân chủ yếu ngành công nghiệp chế biến chế tạo chỉ thiên về lắp ráp giản đơn, các ngành CNHT kém phát triển, chủ yếu sử dụng linh kiện và phụ tùng nhập khẩu. Các DN công nghiệp chế biến chế tạo ở Việt Nam chủ yếu tham gia khâu lắp ráp - khâu tạo ra giá trị gia tăng thấp nhất trong cơ cấu chuỗi giá trị.
Bên cạnh đó, các DN CNHT chủ yếu là DN vừa và nhỏ, thiếu vốn và năng lực tài chính yếu kém nên khó khăn trong đầu tư cũng như mở rộng đầu tư. Trong khi đó, nhân lực, năng suất lao động của Việt Nam đứng ở tầng thấp trong khu vực (cao gấp 2 lần Lào nhưng kém Singapore khoảng 15 lần, kém Malaysia 6 lần, kém Thái Lan 4 lần…). Về mặt công nghệ, Việt Nam vẫn chỉ đạt ở mức trung bình trong khu vực với các sản phẩm làm ra chủ yếu đạt mức độ công nghệ trung bình và thấp, trong khi chi phí đầu vào quá cao so với nhà cung cấp cạnh tranh khác trong khu vực.
Phát triển CNHT với lộ trình, mục tiêu cụ thể
Thực hiện mục tiêu chung phát triển công nghiệp của đất nước trong giai đoạn tới, nhằm đẩy mạnh phát triển CNHT, Bộ Công Thương đã xây dựng Chương trình phát triển CNHT từ năm 2016 đến năm 2025 trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Chương trình đề ra những mục tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực, lộ trình, đối tượng thực hiện, kinh phí cho chương trình, cách thức tổ chức thực hiện; đặt ra mục tiêu hỗ trợ các tổ chức, cá nhân nâng cao năng lực trong hoạt động phát triển CNHT, kết hợp cùng với các chính sách hỗ trợ khác của nhà nước cho CNHT. Một số mục tiêu phấn đấu cụ thể như: Đến năm 2020, sản phẩm CNHT đáp ứng khoảng 45% nhu cầu thiết yếu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa và xuất khẩu 25% giá trị sản xuất công nghiệp; năm 2030, sản phẩm CNHT đáp ứng được 70% nhu cầu cho sản xuất, tiêu dùng trong nội địa; năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp CNHT chiếm khoảng 11% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành công nghiệp và đến năm 2030, chiếm khoảng 14% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành công nghiệp...
Tỷ lệ nội địa hóa trong các sản phẩm công nghiệp chưa cao |
Bên cạnh đó, chương trình được thực hiện theo 2 giai đoạn, cụ thể như sau:
Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020: Hướng tới việc kết nối, hỗ trợ DN CNHT trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNHT. Qua đó, xúc tiến và hỗ trợ mở rộng thị trường trong và ngoài nước cho các ngành CNHT; hình thành các diễn đàn, chương trình tìm hiểu và đối thoại trực tiếp giữa DN CNHT của Việt Nam và tập đoàn đa quốc gia, các công ty sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài; tạo mối liên kết hiệu quả giữa DN Việt Nam với tập đoàn đa quốc gia, công ty sản xuất, lắp ráp trong nước và nước ngoài; tổ chức triển lãm CNHT trong và ngoài nước, khảo sát đánh giá nhu cầu, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kiểm soát chất lượng cho sản phẩm CNHT; xác định năng lực DN, lựa chọn và công nhận các DN có trình độ và quy mô đáp ứng yêu cầu quốc tế; hỗ trợ các DN quảng bá, đăng ký thương hiệu sản phẩm, phát triển thị trường tiêu thụ.
Tiếp đến là hỗ trợ đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của ngành sản xuất sản phẩm CNHT; xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cho CNHT; tăng cường liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu, cơ sở đào tạo và DN; hỗ trợ nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; thúc đẩy các cơ sở nghiên cứu và DN nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới công nghệ, sản xuất thử nghiệm, tiếp nhận chuyển giao công nghệ trong lĩnh vực CNHT; xây dựng và công bố thông tin về CNHT hàng năm, xây dựng cơ sở dữ liệu và xuất bản ấn phẩm về CNHT…
Giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2025: Tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn 2016-2020 trên cơ sở rà soát đánh giá kết quả thực hiện, bao gồm: Kết nối, hỗ trợ DN CNHT trở thành nhà cung ứng sản phẩm cho khách hàng trong và ngoài nước; xúc tiến thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực CNHT; hỗ trợ DN áp dụng hệ thống quản lý đáp ứng yêu cầu của chuỗi sản xuất toàn cầu trong quản trị DN, quản trị sản xuất; đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của các ngành sản xuất sản phẩm CNHT; nghiên cứu phát triển, ứng dụng chuyển giao và đổi mới công nghệ trong sản xuất thử nghiệm linh kiện, phụ tùng, nguyên liệu và vật liệu; xây dựng và công bố thông tin về CNHT hàng năm.
Về tổ chức thực hiện chương trình, Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quản lý, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện.
Dù nhận thức được vai trò quan trọng của CNHT đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng nhưng sự đầu tư các nguồn lực cho ngành CNHT chưa tương xứng. |