Phát huy cơ chế ba bên để Luật Địa chất và Khoáng sản đi vào đời sống
Đây là thông tin được đưa ra tại Toạ đàm với chủ đề: ‘Luật Địa chất và Khoáng sản – Nền tảng phát huy hiệu quả nguồn lực địa chất khoáng sản và công nghiệp khai khoáng’ do Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam tổ chức vào chiều ngày 16/9, tại Hà Nội.
Luật mới, thách thức cũ
Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 được Quốc hội khóa XV thông qua có hiệu lực chung từ ngày 01/7/2025, đóng vai trò là văn bản pháp lý cao nhất, định hình toàn bộ khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động địa chất và khoáng sản.

Toàn cảnh tọa đàm. Ảnh: N.H.
Ông Phạm Văn Sơn - Giám đốc Trung tâm Ứng phó sự cố môi trường Việt Nam (SOS), Tổng Thư ký Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) cho rằng, Luật Địa chất và Khoáng sản 2024 đặt ra yêu cầu gắn khai thác với trách nhiệm bảo vệ môi trường. Luật cũng đã nêu nguyên tắc, khai thác khoáng sản phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để quyết định đầu tư; và chiến lược công nghiệp khai khoáng phải phù hợp với chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Điều này đã thể hiện rõ quan điểm và đường lối lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, "không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế".
Tuy nhiên, khi triển khai các nội dung thực tiễn liên quan đến bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm phát sinh hàng ngày, phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường trong khai thác khoáng sản thì cần phải có các văn bản dưới luật và hướng dẫn kỹ thuật cụ thể hơn giúp doanh nghiệp có thể áp dụng rõ ràng. Bởi trong Luật Địa chất và Khoáng sản, Điều 79 quy định “Yêu cầu chung về bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản” mới chỉ nêu khái quát.
Bà Phạm Thị Thanh - Phó Trưởng phòng Pháp chế và Kiểm soát hoạt động địa chất khoáng sản, Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) nhìn nhận, thách thức lớn nhất hiện nay chính là việc chuyển hóa các chủ trương, chính sách và quy định pháp luật mới thành hành động cụ thể, đồng bộ và hiệu quả trên thực tế, đặc biệt trong bối cảnh những tồn tại, hạn chế từ giai đoạn trước vẫn còn khá lớn.
Bà Thanh phân tích, mặc dù luật đã phân quyền mạnh mẽ hơn cho địa phương, nhưng năng lực về chuyên môn, công nghệ, nhân lực của một số địa phương còn hạn chế. Việc phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương đôi khi còn chưa thực sự thông suốt, dẫn đến việc triển khai chưa đồng bộ. Bên cạnh đó, hiện trạng dữ liệu địa chất, khoáng sản vẫn còn phân tán, chưa được chuẩn hóa và khai thác hiệu quả; gây khó khăn cho việc ra quyết định của cả cơ quan quản lý và doanh nghiệp.
Mặt khác, việc thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ khai thác, chế biến sâu hiện đại, thân thiện môi trường còn gặp những rào cản, nhất là với các mỏ nhỏ, phân tán hoặc khoáng sản phức tạp. Ngoài ra, việc đảm bảo cân bằng giữa lợi ích kinh tế của doanh nghiệp, ngân sách nhà nước và quyền lợi của cộng đồng, bảo vệ môi trường vẫn là bài toán khó.
5 giải pháp để luật đi vào cuộc sống
Thực tế, ngành khai khoáng hiện đang đối mặt với nhiều thách thức, từ áp lực môi trường, biến đổi khí hậu đến yêu cầu về hiệu quả kinh tế và trách nhiệm xã hội. Để Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024 thực sự trở thành một công cụ quản lý hiệu quả và là động lực cho phát triển xanh, bà Phạm Thị Thanh đã gợi mở 5 giải pháp.
Thứ nhất, tư duy quản lý và quy hoạch phải thực sự bền vững. Các quy hoạch địa chất, khoáng sản không chỉ dừng lại ở việc xác định trữ lượng hay vị trí mỏ, mà phải tích hợp sâu rộng các yếu tố môi trường, xã hội, quốc phòng, an ninh; Cần quy hoạch theo hướng khai thác có chọn lọc, ưu tiên khoáng sản chiến lược, quan trọng, khuyến khích chế biến sâu để gia tăng giá trị.
Thứ hai, ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại là bắt buộc. Để phát triển xanh, ngành khai khoáng không thể giữ mãi công nghệ lạc hậu. Cần phải khuyến khích, thúc đẩy mạnh mẽ việc đầu tư và chuyển giao công nghệ cao trong tất cả các khâu: thăm dò thông minh, khai thác ít gây tác động, chế biến sâu với công nghệ sạch, phục hồi môi trường hiệu quả; giúp tối ưu hóa tài nguyên, giảm thiểu chất thải và ô nhiễm, phù hợp với định nghĩa về phát triển xanh.
Thứ ba, cơ chế phân quyền phải đi đôi với nâng cao năng lực và tăng cường giám sát. Mặc dù luật đã có những đổi mới mạnh mẽ về phân quyền cho địa phương. Nhưng để cơ chế này hiệu quả, cần nâng cao năng lực chuyên môn, quản lý cho cán bộ địa phương, cung cấp đầy đủ dữ liệu và hệ thống thông tin; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của cơ quan để đảm bảo việc thực thi đúng pháp luật và các nguyên tắc bền vững của luật.
Thứ tư, minh bạch và trách nhiệm giải trình cần được đặt lên hàng đầu. Việc công khai toàn bộ chu trình khai khoáng, từ cấp phép, giám sát, đến thu hồi và phục hồi môi trường, sẽ tạo niềm tin và thu hút sự tham gia của xã hội. Hệ thống dữ liệu địa chất và khoáng sản quốc gia được xây dựng đồng bộ sẽ là nền tảng cho sự minh bạch, là cơ sở để đánh giá hiệu quả và trách nhiệm.
Thứ năm, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư. Theo đó, Luật cần tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, nhưng đồng thời phải bảo vệ quyền lợi của người dân, đặc biệt là cộng đồng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động khai khoáng. Việc ưu tiên bố trí ngân sách cho điều tra cơ bản và thu hút nguồn lực xã hội hóa cũng sẽ là giải pháp quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển xanh của ngành.
Từ góc nhìn doanh nghiệp và hiệp hội, ông Phạm Văn Sơn cho rằng, ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tuân thủ luật, nhất là về phục hồi môi trường và ứng phó sự cố là hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, cần đổi mới công nghệ khai thác và xử lý chất thải; vì chỉ có công nghệ sạch mới dung hòa được lợi ích kinh tế và môi trường. Đồng thời, xây dựng cơ chế phối hợp ba bên: doanh nghiệp, chính quyền, cộng đồng. Khi cộng đồng được tham gia giám sát, doanh nghiệp sẽ làm tốt hơn và Luật mới thực sự đi vào đời sống.
Ở góc độ báo chí truyền thông chính sách, ông Đào Xuân Hưng - Tổng Biên tập Tạp chí Nông nghiệp và Môi trường nhìn nhận, yếu tố chiến lược nhất là tạo đồng thuận xã hội. Luật Địa chất và Khoáng sản chỉ phát huy sức mạnh khi người dân, doanh nghiệp và chính quyền cùng hiểu, cùng ủng hộ và thực hiện. Do đó, truyền thông phải biến quy định pháp luật thành ngôn ngữ dễ hiểu, gần gũi; là cầu nối phản ánh tiếng nói của cơ sở để chính sách được điều chỉnh phù hợp. Qua đó tăng cường vai trò giám sát của báo chí và cộng đồng, đây là lực đẩy quan trọng để luật thực sự trở thành công cụ quản lý minh bạch.
Trong thời gian tới, các cơ quan soạn thảo sẽ tiếp tục hoàn thiện nghị định, thông tư hướng dẫn cụ thể quy định về tiêu chuẩn đối với bể chứa chất thải quặng đuôi, lập, thẩm định kế hoạch phòng ngừa ứng phó sự cố môi trường và quy định về công trình xử lý nước thải phát sinh hàng ngày - đây nội dung bắt buộc đối với thủ tục cấp phép cũng như hoạt động khai thác khoáng sản.