Niên biểu toàn khóa (Đại hội Đảng lần thứ IX)
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.479.719
Số lượng tham dự Đại hội: 1.168 đại biểu
Tổng bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 150 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 15 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Dự Đại hội có 1.168 đại biểu, thay mặt cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Có 34 đoàn đại biểu quốc tế tham dự đại hội.
Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội "Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới”, là Đại hội có ý nghĩa lịch sử trọng đại, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc Việt Nam vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội đánh dấu chặng đường 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế - xã hội 1991-2000, là Đại hội đầu tiên của Đảng trong thế kỷ XXI.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 150 uỷ viên. Bộ Chính trị gồm có 15 uỷ viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã họp 14 lần để bàn và quyết định nhiều vấn đề quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó có vấn đề tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến 2010; Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức cán bộ; Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010; Về đổi mới và nâng cao hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn; Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong bối cảnh loài người đã kết thúc thế kỷ XX và bước sang thế kỷ XXI, dân tộc ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với nhiều thách thức lớn.
Đại hội nhận định: Khả năng duy trì hoà bình ổn định trên thế giới và khu vực cho phép chúng ta tập trung vào nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.
Cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt và công nghệ thông tin và công nghệ sinh học tiếp tục có bước phát triển nhảy vọt, ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng.
Toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ. Đây là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hoá và bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch...
Tình hình đất nước ta sau 15 năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo thế và lực để thúc đẩy công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải đối phó với những thách thức: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng quan liêu, “diễn biến hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra.
Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới là vấn đề có ý nghĩa sống còn của Đảng và nhân dân ta. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX diễn ra trong hoàn cảnh đó, phải hoạch định đường lối đúng đắn cho sự phát triển của đất nước trong những năm 2001- 2005 và 2001-2010.
Dự Đại hội có 1.168 đại biểu đại diện cho hơn hai triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước và đang công tác ở nước ngoài.
Đến dự Đại hội còn có đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Cuba, đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp…, các vị trong đoàn ngoại giao, đại diện các tổ chức quốc gia và quốc tế, đại diện các tổ chức phi chính phủ tại Hà Nội.
Đồng chí Trần Đức Lương, Uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị đọc diễn văn khai mạc. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII về các văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Đại hội IX của Đảng đã đánh giá về chặng đường 71 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10 năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm với đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới.
Báo cáo Chính trị “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” đã trình bày 10 vấn đề:
- Việt Nam trong thế kỷ XX và triển vọng trong thế kỷ XXI;
- Tình hình đất nước 5 năm qua và những bài học chủ yếu của 15 năm đổi mới;
- Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta;
- Đường lối và chính sách phát triển kinh tế - xã hội;
- Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Tăng cường quốc phòng và an ninh;
- Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế;
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân;
- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế;
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đánh giá về nước ta trong thế kỷ XX, Đại hội IX khẳng định: Thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ đấu tranh oanh liệt giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thế kỷ của những chiến công và thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
“Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Về triển vọng trong thế kỷ XXI: Thế kỷ XXI sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi, nhân dân ta có cả cơ hội lớn và thách thức lớn.
Về đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch của 5 năm (1996-2000), Báo cáo Chính trị khẳng định 5 nhóm thành tựu quan trọng sau: kinh tế tăng trưởng khá; văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ thống chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Bên cạnh khẳng định những thành tựu đó, Đại hội IX đánh giá quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII còn bộc lộ những yếu kém, khuyết điển: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp; Một số vấn đề văn hoá - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết; Cơ chế, chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển; Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
Tổng kết 10 năm thực hiện “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”. Đại hội đánh giá tổng quát: phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội 1991-2000 đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội IX khẳng định những kinh nghiệm, bài học đổi mới mà các Đại hội VI, VII, VIII của Đảng đã đúc rút vẫn có giá trị lớn, nhất là các bài học chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức, do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội ở tất cả các cấp, các ngành, thu hút trí tuệ và sức lực của toàn dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đường lối kinh tế của Đảng được Đại hội thông qua là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh.
Cùng với lĩnh vực kinh tế, Đại hội IX đã xác định đường lối lãnh đạo đối với các lĩnh vực khác: “Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “Tăng cường quốc phòng và an ninh”; “Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”; “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”; “Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế”; xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Đại hội khẳng định phải coi xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đại hội IX đã hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đi đôi với hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010, Đại hội IX đã thông qua Phướng hướng, nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005.
Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001-2010 và Phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005 của Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII trình Đại hội. Đại hội đã thông qua toàn văn Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 uỷ viên là: Nguyễn Văn An, Lê Hồng Anh, Lê Thị Bân, Trịnh Long Biên, Đào Đình Bình, Nguyễn Thái Bình, Nguyễn Văn Chi, Trần Thị Trung Chiến, Vũ Tiến Chiến, Nguyễn Văn Chiến, Hoàng Xuân Cừ, Nguyễn Quốc Cường, Phan Diễn, Nguyễn Thị Loan, Ngô Văn Thụ, Lê Văn Dũng, Hồ Nghĩa Dũng, Nguyễn Tấn Dũng, Đỗ Bình Dương, Mai Thế Dương, Huỳnh Đảm, Phan Tất Đạt, Nguyễn Văn Đẳng, Nguyễn Khoa Điềm, Chama Léa Điêu, Nguyễn Văn Được, Trương Quang Được, Lê Nam Giới, Hoàng Trung Hải, Lê Thanh Hải, Trần Mai Hạnh, Nguyễn Đức Hạt, Nguyễn Thị Hằng, Cù Thị Hậu, Hà Văn Hiền, Vũ Văn Hiền, Vũ Văn Hiến, Nguyễn Minh Hiển, Nguyễn Văn Hiện, Nguyễn Huy Hiệu, Trương Mỹ Hoa, Trần Hòa, Trần Đình Hoan, Hoàng Công Hoan, Hoàng Văn Hon, Nguyễn Thị Kim Hồng, Lê Doãn Hợp, Bùi Văn Huấn, Nguyễn Sinh Hùng, Vũ Quốc Hùng, Bùi Quang Huy, Bùi Quốc Huy, Võ Đức Huy, Đinh Thế Huynh, Lê Minh Hương, Nguyễn Văn Hưởng, Huỳnh Hữu Kha, Phan Văn Khải, Nguyễn Tuấn Khanh, Phạm Gia Khiêm, Hà Thị Khiết, Vũ Khoan, Nguyễn Đức Kiên, Phan Trung Kiên, Vũ Trọng Kim, Hoàng Kỳ, Vũ Ngọc Kỳ, Phạm Văn Long, Nguyễn Hữu Luật, Trần Đức Lương, Uông Chu Lưu, Hồ Xuân Mãn, Nông Đức Mạnh, Vũ Mão, Đặng Vũ Minh, Nguyễn Ánh Minh, Nguyễn Tuấn Minh, Đỗ Hoài Nam, Mai Văn Năm, Nguyễn Thị Kim Nhân, Hồ Tiến Nghị, Phạm Quang Nghị, Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Văn Nghiên, Nguyễn Khắc Nghiên, Lê Huy Ngọ, Tạ Quang Ngọc, Nguyễn Duy Niên, Tráng A Pao, Nguyễn Tấn Phát, Hoàng Văn Phong, Tòng Thị Phóng, Phạm Đình Phú, Phùng Hữu Phú, Võ Hồng Phúc, Giàng Seo Phử, Ksor Phước, Đỗ Nguyên Phương, Lê Hoàng Quân, Hoàng Bình Quân, Nguyễn Hồng Quân, Nguyễn Văn Quân, Nguyễn Tấn Quyên, Trịnh Trọng Quyền, Nguyễn Văn Rinh, Tô Huy Rứa, Trương Tấn Sang, Nguyễn Văn Son, Khuất Hữu Sơn, Sơn Song Sơn, Đỗ Trung Tá, Lê Thanh Tâm, Lê Bình Thanh, Nguyễn Phúc Thanh, Phùng Quang Thanh, Quách Lê Thanh, Tạ Hữu Thanh, Nguyễn Thế Thảo, Dương Mạc Thăng, Võ Thị Thắng, Đào Trọng Thi, Phạm Văn Thọ, Nguyễn Thị Hoài Hoài Thu, Niê Thuật, Lê Đức Thúy, Lê Thế Tiệm, Bùi Sĩ Tiếu, Nguyễn Văn Tình, Ma Thanh Toàn, Nguyễn Khánh Toàn, Phạm Văn Trà, Hà Mạnh Trí, Nguyễn Thế Trị, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Đức Triều, Nguyễn Phú Trọng, Trương Vĩnh Trọng, Đỗ Quang Trung, Mai Thế Trung, Trần Văn Truyền, Mai Ái Trực, Trần Văn Tuấn, Phạm Minh Tuyên, Trương Đình Tuyển, Nguyễn Văn Tự, Y Vêng, Hồ Đức Việt, Lâm Chí Việt, Hồng Vinh (Nguyễn Duy Lự), Nguyễn Văn Yểu.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đã bầu Bộ Chính trị gồm 15 ủy viên: Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Minh Hương, Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang, Phạm Văn Trà, Nguyễn Văn An, Trương Quang Được, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm.
Ban Bí thư Trung ương Đảng gồm 9 đồng chí: Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Lê Hồng Anh, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Văn Dũng, Tòng Thị Phóng, Trương Vĩnh Trọng, Vũ Khoan. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Thành công của Đại hội đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng, cột mốc mới trong tiến trình cách mạng nước ta. Diễn văn bế mạc Đại hội của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nêu rõ: “Kết quả Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta có ý nghĩa rất to lớn, mở ra một thời kỳ mới phát triển đất nước trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Tương lai của dân tộc ta rất sáng lạn, song con đường đi tới còn không ít khó khăn, thử thách. Thắng lợi của sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ mới tuỳ thuộc vào khả năng nhận rõ và chủ động nắm bắt thời cơ, khắc phục nguy cơ của đất nước và của từng ngành, từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. Vì vậy, trong nhận thức và trong hành động của mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân phải quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm và các quyết sách do Đại hội IX đề ra, nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ với bạn bè trên thế giới; rèn luyện bản lĩnh, nắm vững thời cơ, khắc phục nguy cơ, bảo đảm ổn định và phát triển đất nước. Vì vậy, các cấp uỷ và tổ chức đảng cần tập trung chỉ đạo quá trình tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và quyết tâm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực..”.
Đại hội IX đã làm tròn được trách nhiệm trọng đại do toàn Đảng, toàn dân giao phó và sự mong đợi của bạn bè quốc tế. Đó là: “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc ta trong thời điểm trọng đại bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới”.
Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX diễn ra trong hai ngày 9 và 10-6-2001, với mục đích đưa nhanh những nội dung của Nghị quyết Đại hội IX vào cuộc sống. Hội nghị cũng đã góp ý kiến về dự án Thủy điện Sơn La, nhất trí với đề nghị của đồng chí Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh thôi giữ chức Chủ tịch Quốc hội.
Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 22-8-2001 tại Hà Nội, đã thông qua quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, Chương trình làm việc toàn khóa của Ban Chấp hành Trung ương. Theo đó quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương có sự đổi mới, sẽ dành nhiều thời gian xem xét, kiểm điểm việc thực hiện các Nghị quyết đã ban hành, kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX vào giữa nhiệm kỳ, bổ sung những chủ trương, giải pháp cần thiết nhằm đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
Hội nghị đã thông qua nhiều quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn, phương thức công tác của Ủy ban Kiểm tra Trung ương để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ủy ban Kiểm tra Trung ương trong việc kiểm tra và giữ gìn kỷ luật Đảng.
Hội nghị ban hành Nghị quyết về việc tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, với mục đích tạo bước phát triển mới đối với quá trình phát triển của các doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo thế và lực cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nghị lần thứ tư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 5 đến ngày 13-11-2001, đã thảo luận và cho ý kiến về phương hướng chỉ đạo việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992; phương hướng bầu cử Quốc hội khóa IX; kiểm điểm việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2001; xác định mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2002, cụ thể hóa thêm phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm 2001-2005; phương hướng, biện pháp tiếp tục thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí…
Về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Hội nghị nhấn mạnh: Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm 1992…Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Chỉ sửa đổi, bổ sung một số vấn đề thực sự búc xúc, đã đủ cơ sở được kiểm nghiệm trong thực tiễn và có sự thống nhất cao. Đồng thời sửa đổi, bổ sung một số điều thuộc các lĩnh vực khác cho phù hợp với các nội dung mới đã được Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định.
Những nghị quyết quan trọng của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa IX của Đảng, là tư tưởng chỉ đạo và những giải pháp thiết thực góp phần vào thực hiện nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh tế, nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng và cải cách bộ máy nhà nước, cải cách hành chính.
Hội nghị lần thứ năm của Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 18-2 đến ngày 2-3-2002, đã bàn và ra Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. Để thực hiện tốt, Hội nghị đã đề ra nhiệm vụ cụ thể: Thống nhất nhận thức chung của toàn Đảng, toàn dân về sự cần thiết trong phát triển kinh tế tập thể; xác lập môi trường thể chế và tâm lý xã hội thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển; sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách; nâng cao vai trò quản lý của nhà nước; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Liên minh hợp tác xã Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đổi với phát triển kinh tế tập thể.
Hội nghị cũng đã thông qua Nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Với tinh thần khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển, không ngừng nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh trên thị trường.
Về tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn trong những năm đổi mới, Hội nghị đã đưa ra chủ trương: phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa nông thôn; xây dựng đời sống văn hóa - xã hội và phát triển nguồn nhân lực.
Hội nghị cũng đã thông qua Nghị quyết về đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010.
Nghị quyết về đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn cũng được Hội nghị thông qua với ba vấn đề cơ bản: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị và xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở; thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh.
Cùng với việc thông qua Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới. Hội nghị cũng đã đưa ra phương hướng chung cho công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, những nhiệm vụ chủ yếu và những giải pháp lớn nhằm tạo bước chuyển biển mới trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Từ ngày 4 đến ngày 15-7-2002 Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX họp tại Hà Nội, đã tập trung thảo luận Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ từ nay đến năm 2005 và đến năm 2010. Hội nghị đã phân tích những mặt đã làm được và những mặt còn hạn chế của công tác giáo dục - đào tạo qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII). Từ thực tế đó, Hội nghị nhấn mạnh: Ban Chấp hành Trung ương chủ trương từ nay đến năm 2010, toàn đảng toàn dân mà nòng cốt là đội ngũ giáo viên và cán bộ giáo dục cần đặc biệt tập trung vào nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục và đào tạo nhân tài; Phát triển hợp lý quy mô giáo dục trên cơ sở bảo đảm chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, đào tạo và sử dụng; Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội ngày càng tốt hơn cho mọi cấp học và trình độ đào tạo, cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Về khoa học và công nghệ, Hội nghị khẳng định: “Trong 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, khoa học và công nghệ nước ta đã có những đóng góp thiết thực cho việc phát triển kinh tế - xã hội”.
Bên cạnh đó, Hội nghị cũng nghe Báo cáo kiểm điểm việc thực hiện công tác tổ chức và cán bộ theo ba Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Từ đó bổ sung, hoàn chỉnh và rút ra kết luận về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức cán bộ.
Từ ngày 7 đến ngày 9-11-2002, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) đã họp Hội nghị lần thứ bảy (phần 1). Hội nghị đã nghe vào thảo luận các báo cáo về Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2003. Hội nghị đồng ý với chủ trương xây dựng cụm khí – điện – đạm Cà Mau và đồng ý giao Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan có liên quan chuẩn bị trình Quốc hội về một số vấn đề cụ thể của dự án Thủy điện Sơn La.
Hội nghị lần thứ bảy (phần 2) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được họp tại Hà Nội từ ngày 13-1 đến 21-1-2003. Hội nghị đã tập trung đánh giá tình hình khối đại đoàn kết toàn dân tộc từ sau Đại hội VI của Đảng, đồng thời khẳng định những thành tựu quan trọng đã đạt được trong việc tập hợp khối đoàn kết toàn dân. Hội nghị cũng chỉ rõ: trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân chưa thật bền chặt và đang đứng trước những thách thức mới. Từ thực tế đó, Hội nghị đã ra Nghị quyết về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hội nghị phân tích tình hình các dân tộc thiểu số và thực trạng của công tác dân tộc sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng nhất là từ khi có Nghị quyết 22-NQ/TƯ ngày 27-11-1989 của Bộ Chính trị về một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế- xã hội miền núi. Hội nghị đã nêu rõ những thành tựu cơ bản, đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong công tác dân tộc. Trên cơ sở phân tích những nguyên nhân khách quan, chủ quan của những khuyết điểm, Hội nghị đã ra Nghị quyết về công tác dân tộc.
Công tác tôn giáo đã được Hội nghị nhận định là không chỉ có ý nghĩa chiến lược trong thời kỳ đổi mới mà trong thời kỳ đổi mới mà trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, công tác tôn giáo đã có những đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trong thời kỳ đổi mới, tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định. Hội nghị cho rằng, còn tình trạng trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là do công tác tôn giáo chậm đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, một số cấp ủy, chính quyền các cấp, một số cán bộ có trách nhiệm chưa nhận thức, quán triệt đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo. Do vậy, để củng cố công tác tôn giáo trong tình hình mới, hội nghị đã bàn và thông qua Nghị quyết về công tác tôn giáo.
Hội nghị cũng ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo, vấn đề đất đai là những vấn đề vừa có tính thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài trong quá trình phát triển đất nước. Do vậy, những kết luận và nghị quyết được thông qua tại Hội nghị lần thứ bảy (phần 2) đã đánh dấu một bước tiến mới trong việc cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Đó cũng là những vấn đề nhạy cảm, được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm. Việc vụ thể hóa các nghị quyết, đưa các nghị quyết của Đảng vào cuộc sống sẽ tạo ra khí thế mới, những chuyển biến quan trọng trong thời kỳ đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX họp từ ngày 2 đến ngày 12-7-2003 đã bàn và ra Nghị quyết về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh quốc tế và khu vực diễn biến phức tạp. Những vấn đề đặt ra trong chương trình Hội nghị đều có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, vừa mang tính thời sự trước mắt vừa có tầm chiến lược lâu dài, đặc biệt là chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Để thực hiện chiến lược này Hội nghị đã đưa ra 6 nhiệm vụ cơ bản:
Một là, giữ vừng hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hai là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ theo chốt, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ.
Ba là, nỗ lực thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đồng thời chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Bốn là, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng lòng cốt.
Sáu là, đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, ưu tiên phát triển hợp tác vói các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước và trung tâm lớn.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX họp từ ngày 5 đến ngày 12-1-2004. Đây là Hội nghị có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Hội nghị đã nghe báo cáo của Bộ Chính trị về kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Báo cáo nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng và ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.
Từ ngày 5 đến ngày 10-7-2004 Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã họp tại Hà Nội. Hội nghị đã thảo luận Báo cáo và Tờ trình của Bộ Chính trị kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Báo cáo tại Hội nghị đã khẳng định những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực văn hóa là rất quan trọng. Đặc biệt văn hóa đã thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong hoạt động của cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp, từng bước gắn bó chặt chẽ hơn với nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Việc thể chế hóa Nghị quyết được coi trọng, tạo hành lang pháp lý phù hợp và thông thoáng cho nhân dân và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ hoạt động và sáng tạo văn hóa.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Hội nghị chỉ ra nguyên nhân của những yếu kém và xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp chủ yếu để tiếp tục xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 17 đến ngày 25-1-2005. Hội nghị đã nghe thảo luận nội dung Báo cáo tổng kết một số số vấn đề về lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới và các đề cương chi tiết Báo cáo chính trị; Báo cáo bổ sung một số nội dung trong Cương lĩnh chính trị năm 1991; Báo cáo phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
Hội nghị đã thảo luận và cho ý kiến về vấn đề Đảng và công tác xây dựng Đảng, nhất là tình hình tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên; tình hình công tác tổ chức cán bộ của Đảng, đặc biệt là tình hình tổ chức đảng ở cơ sở; vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; công tác kiểm tra, kỷ luật đảng; xem xét nguyên nhân của tình hình và rút ra bài học kinh nghiệm trong công tác xây dựng Đảng. Trên cơ sở đó, xác định phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng trong những năm tới nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới.
Hội nghị nhấn mạnh: Năm 2005 là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, cũng là năm Đảng ta tiến hành Đại hội Đảng các cấp tiến đến Đại hội X. Hội nghị kêu gọi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất, vẻ vang của dân tộc ta, của Đảng ta, biến chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng thành sức mạnh tinh thần, vật chất to lớn; thúc đẩy mạnh mẽ phong trào thi đua lao động sáng tạo nhằm hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh tế, xã hội năm 2005; xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; chuẩn bị mọi điều kiện thuận lợi cho các bước phát triển tiếp theo.
Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa IX diễn ra từ ngày 4 đến ngày 13-7-2005, đã thảo luận và thông qua các dự thảo văn kiện sẽ trình Đại hội X của Đảng: Báo cáo chính trị; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo về công tác xây dựng Đảng và Báo cáo một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng. Đồng thời, Hội nghị đã thảo luận phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa X.
Trên cơ sở đánh giá đúng tình hình, làm rõ những cơ hội và thách thức sắp tới, Hội nghị nhất trí đề ra chủ đề của Đại hội X là: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; Hội nghị đề ra các phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng trên tất cả các mặt, cả về tư tưởng, chính trị, tổ chức và cán bộ, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; củng cố, tăng cường vai trò, vị trí của các tổ chức đảng và nhiều vấn đề quan trọng khác. Hội nghị cũng đưa ra phương hướng công tác nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa X
Hội nghị Trung ương 12 đặc biệt quan tâm đến tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay, đề ra những giải pháp cụ thể nhằm đấu tranh có hiệu quả chống lại các âm mưu, thủ đoạn diễn biến hòa bình, kích động bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; kiên quyết bác bỏ những luận điệu tuyên truyền, bịa đặt, xuyên tạc và vu khống, khắc phục những biểu hiện dao động và thiếu ý thức tổ chức kỷ luật của một số cán bộ, đảng viên, củng cố vững chắc sự đoàn kết, thống nhất của toàn Đảng chung quanh Ban Chấp hành Trung ương.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã nêu rõ: Kết quả của Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đánh dấu một bước tiến mới rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị Đại hội X trên cả hai mặt nội dung văn kiện và phương hướng công tác nhân sự.
Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX được tiến hành từ ngày 11 đến ngày 18 -1-2006, đã xem xét công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X. Hội nghị cũng quyết định công bố toàn văn Dự thảo Báo cáo chính trị để lấy ý kiến nhân dân vào dịp kỷ niệm 76 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã đề nghị với Trung ương tập trung chỉ đạo việc chỉnh lý, hoàn chỉnh Báo cáo chính trị để lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân, tiến hành khẩn trương các công việc chuẩn bị Đại hội X.
Từ ngày 20-3 đến ngày 24-3-2006, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã họp Hội nghị lần thứ 14 tại Hà Nội để tiếp tục công việc chuẩn bị Đại hội X của Đảng. Hội nghị đã nghe báo cáo về ý kiến đóng góp của nhân dân vào Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội X của Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận nghiêm túc, tiếp thu tối đa những ý kiến hợp lý, xác đáng để làm cho các văn kiện Đại hội X thực sự là kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân.
Hội nghị lần thứ 14 đã tiếp tục xem xét công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa X. Ban Chấp hành Trung ương đã biểu quyết thông qua danh sách giới thiệu ứng cử ủy viên Ban Chấp hành Trung ương khóa X để trình Đại hội X. Hội nghị xũng đã quyết định triệu tập Đại hội X của Đảng từ ngày 18-4 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội.
Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nêu rõ: cùng với việc khẩn trương hoàn chỉnh các văn hiện để trình đại hội X, toàn Đảng, toàn dân phải dành nhiều công sức cho công tác tổ chức về mọi mặt để bảo đảm thành công của Đại hội. Đồng thời các cấp ủy đảng, các cơ quan Nhà nước, các địa phương và cơ sở đều phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn việc thực hiện những nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước năm 2006, tiếp tục đà thuận lợi của quý I, bước sang quý II với nhiều cố gắng mới và thành tựu mới; phải tiếp tục giữ vững và tăng cường ổn định chính trị - xã hội, giải quyết kịp thời và đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh về đối nội và đối ngoại nhằm tạo nên sự phát triển hài hòa, vững chắc.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.