Phát biểu tại Hội thảo góp ý dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 83 và 95 về kinh doanh xăng dầu, ông Hoàng Anh Tuấn - Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước - Bộ Công Thương đã trình bày những phương án của Ban soạn thảo tại dự thảo sửa đổi Nghị định để các hiệp hội, doanh nghiệp, chuyên gia có ý kiến.
Các phương án về sửa đổi Nghị định được Bộ Công Thương đưa ra để lấy ý kiến góp ý công khai |
Về công thức giá và phương thức điều hành giá xăng dầu
Hiện nay, giá xăng dầu đang được điều hành theo hướng Nhà nước quy định công thức giá cơ sở đầy đủ và giá cơ sở này sẽ làm căn cứ để cơ quan nhà nước điều hành giá bán lẻ xăng dầu trong nước (nhà nước công bố mức giá điều hành như mức giá trần để các doanh nghiệp tự xác định giá bán lẻ xăng dầu trong hệ thống của doanh nghiệp không cao hơn mức giá bán lẻ nhà nước công bố). Việc quy định mức giá cơ sở theo một công thức cố định với các chi phí được tính dựa trên mức chi phí bình quân do các doanh nghiệp báo cáo theo hướng dẫn của Bộ Tài chính sẽ không bao giờ phản ánh đúng mức chi phí của từng doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu.
Các chi phí này biến động liên tục theo thị trường, trong khi việc rà soát, tính toán của cơ quan nhà nước theo định kỳ nên thường sẽ không phản ánh được thực tế chi phí phát sinh doanh nghiệp phải bỏ ra (trong giai đoạn chi phí tăng cao liên tục, doanh nghiệp sẽ bị thua lỗ). Trong trường hợp các chi phí được cập nhật theo biến động của thị trường, khi chi phí được xác định theo mức bình quân sẽ luôn có một số doanh nghiệp có mức chi phí cao hơn mức chi phí bình quân và do đó sẽ bị lỗ so với mức chi phí được tính trong giá cơ sở (là giá trần được bán ra của doanh nghiệp) nên sẽ ảnh hưởng đến khả năng duy trì hoạt động kinh doanh và bảo đảm mức chiết khấu trong hệ thống phân phối.
Thời gian vừa qua, thị trường xăng dầu có nhiều biến động, nguồn cung xăng dầu cho thị trường có một số bất ổn, một trong những nguyên nhân là do các chi phí kinh doanh xăng dầu chưa được tính đúng, tính đủ trong cơ cấu giá cơ sở xăng dầu do Nhà nước điều hành dẫn đến doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu bị thua lỗ, không có động lực duy trì hoạt động kinh doanh.
Để khắc phục tình trạng trên, Thường trực Tổ biên tập đề xuất Bộ Tài chính phối hợp rà soát sửa đổi, bổ sung quy định về công thức giá cơ sở mặt hàng xăng dầu theo các phương án:
(i) Phương án 1: Tiếp tục điều hành giá xăng dầu theo quy định hiện hành và sửa đổi công thức giá cơ sở hiện hành theo hướng rà soát, bổ sung một số chi phí thực tế phát sinh của doanh nghiệp nhưng chưa được tính trong giá cơ sở hiện hành (như rà soát nội dung quy định về premium trong nước...), đồng thời, rà soát các quy định về phương thức xác định các chi phí, tần suất xác định chi phí… để bảo đảm tính đúng, tính đủ, kịp thời các chi phí trong giá cơ sở do Nhà nước công bố.
- Ưu điểm: Nhà nước tiếp tục quản lý chặt chẽ đối với giá xăng dầu bán trên thị trường, giá xăng dầu trên thị trường cơ bản thống nhất giữa các địa bàn.
- Nhược điểm: Khi các yếu tố cấu thành giá xăng dầu như chi phí kinh doanh có biến động bất thường, mặc dù việc rà soát, tính toán đã được quy định theo hướng kịp thời hơn nhưng mức chi phí cuối cùng trong công thức giá cơ sở vẫn là mức bình quân nên sẽ không phản ánh đúng chi phí thực tế doanh nghiệp phải chi ra, nhiều doanh nghiệp sẽ bị thiệt hại, không bảo đảm duy trì được hoạt động kinh doanh, gây bất ổn nguồn cung cục bộ.
(ii) Phương án 2: Sửa đổi công thức giá và phương pháp công bố giá cơ sở mặt hàng xăng dầu theo hướng Nhà nước chỉ công bố các yếu tố cấu thành giá gồm giá thế giới (giá Platt’s), các loại thuế thu vào ngân sách Nhà nước, lợi nhuận định mức, mức trích lập, chi sử dụng Quỹ bình ổn giá (có quy định nguyên tắc vận hành của công cụ Quỹ bình ổn giá cụ thể) để định hướng cho việc tính và quyết định giá bán lẻ xăng dầu cụ thể của các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu. Các doanh nghiệp căn cứ các chi phí thực tế của mình (gồm các chi phí kinh doanh, chi phí vận chuyển, premium...) để tự xác định và công bố giá bán lẻ của doanh nghiệp mình, thực hiện kê khai giá khi thay đổi giá và báo cáo về Bộ Công Thương, Bộ Tài chính để giám sát (như đối với các mặt hàng bình ổn giá khác theo quy định tại Luật Giá).
- Ưu điểm: Bảo đảm các chi phí trong giá xăng dầu theo thực tế phát sinh đối với từng doanh nghiệp, hài hòa lợi ích giữa các chủ thể tham gia thị trường, hạn chế sự can thiệp của Nhà nước vào giá bán xăng dầu, đưa giá xăng dầu dần theo thị trường quyết định, hạn chế việc đầu cơ găm hàng, khuyến khích các doanh nghiệp tạo nguồn cung ổn định cho thị trường. Khi các doanh nghiệp đầu mối được tự quyết định các chi phí trong kinh doanh xăng dầu, vấn đề chiết khấu cho các doanh nghiệp thuộc hệ thống phân phối sẽ được giải quyết. Các doanh nghiệp đầu mối sẽ cân đối và duy trì chiết khấu trong hệ thống ở mức phù hợp với thực tế cung cầu xăng dầu trên thị trường từng giai đoạn và giúp thúc đẩy tính cạnh tranh.
- Nhược điểm: Có nhiều mức giá xăng dầu trên thị trường, khi người dân chưa quen với việc này sẽ có phản ứng đối với giá xăng dầu của các doanh nghiệp có chi phí cao; đối với những địa bàn không có nhiều doanh nghiệp cung cấp xăng dầu cho thị trường (mức độ cạnh tranh kém), quy định này sẽ không khuyến khích doanh nghiệp tiết giảm chi phí kinh doanh để giảm giá bán, giá xăng dầu. Đối với các địa bàn vùng sâu, vùng xa, do phát sinh chi phí cao, mức độ cạnh tranh thấp nên người dân tại các địa bàn này có thể phải mua xăng dầu với giá cao hơn các địa bàn khác.
Về thời gian điều hành/công bố giá
Trước đây, theo quy định của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP, thời gian điều hành giá xăng dầu giữa 02 kỳ điều hành là 15 ngày (trước đó theo quy định của Nghị định số 84/2009/NĐ-CP thời gian giữa 02 kỳ điều hành là 10 ngày). Theo quy định tại Nghị định số 95/2021/NĐ-CP, thời gian điều hành giá xăng dầu giữa 02 kỳ điều hành đã được sửa đổi giảm từ 15 ngày (theo Nghị định số 83/2014/NĐ-CP) xuống 10 ngày (cụ thể điều hành vào các ngày 01, 11, 21 hàng tháng).
Việc rút ngắn thời gian điều hành nêu trên đã được điều chỉnh trên cơ sở ý kiến của các doanh nghiệp, Hiệp hội kinh doanh xăng dầu (những đơn vị trực tiếp liên quan và có kinh nghiệm nhiều trong việc mua bán xăng dầu trên thị trường). Khoảng thời gian 10 ngày được các doanh nghiệp nhận định là phù hợp với phương thức tính giá mua bán và nhập hàng của các doanh nghiệp, phù hợp với chu kỳ lấy giá để tính chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Tổng cục Thống kê…, giữ mức ổn định tương đối để thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp cũng như mục tiêu bình ổn thị trường.
Theo quy định tại Nghị định số 95/2021/NĐ-CP, kỳ điều hành giá xăng dầu sẽ vào các ngày 01, 11, 21 hàng tháng tức là 10 ngày điều hành/lần, trường hợp giá xăng dầu có diễn biến bất thường ảnh hưởng đến kinh tế, xã hội và người dân, Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng quyết định thời điểm điều hành giá cho phù hợp. Như vậy, quy định hiện hành đã cho phép linh hoạt về kỳ điều hành giá xăng dầu. Thời gian vừa qua, trước diễn biến tăng liên tục của giá xăng dầu thế giới tại một số thời điểm, Bộ Công Thương đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép điều hành sớm giá xăng dầu để giá xăng dầu trong nước bám sát diễn biến giá xăng dầu thế giới và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu cung ứng xăng dầu cho thị trường.
Tuy nhiên, sau khi tham khảo ý kiến của một số Bộ, ngành, và đánh giá việc điều hành sớm trong một số giai đoạn (trước và sau Tết Nguyên đán, dịp nghỉ lễ 2/9…) sẽ ảnh hưởng đến đời sống, tâm lý người dân, doanh nghiệp sử dụng xăng dầu làm đầu vào cho sản xuất, kinh doanh và tác động lớn đến CPI cả nước… nên Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Công Thương thực hiện điều hành giá xăng dầu theo đúng thời gian quy định tại Nghị định số 95/2022/NĐ-CP.
Bên cạnh đó, qua đánh giá các đề xuất của doanh nghiệp về việc điều chỉnh thời gian của chu kỳ điều hành giá cho thấy, chỉ khi giá tăng, các doanh nghiệp mới nêu mạnh vấn đề rút ngắn thời gian điều hành giá nhưng khi giá giảm, các doanh nghiệp lại có xu hướng đề xuất kéo dài thời gian điều hành giá (có một số ý kiến của doanh nghiệp bán lẻ xăng dầu đề nghị thời gian điều hành giá nên quay lại quy định như trước đây là 15 ngày). Quan điểm của Liên Bộ Công Thương – Tài chính, chu kỳ điều hành giá 10 ngày hiện vẫn cơ bản phù hợp và không phải là nguyên nhân của việc thiếu hụt nguồn cung xăng dầu thời gian vừa qua. Tuy nhiên, trên cơ sở ý kiến của một số đơn vị và chỉ đạo của Lãnh đạo Chính phủ, Thường trực Tổ biên tập đề xuất 02 phương án quy định về điều hành giá xăng dầu như sau:
(i) Phương án 1: Giữ nguyên quy định hiện hành về thời gian điều hành/công bố giá xăng dầu (thời gian điều hành là vào các ngày 1, 11, 21 hàng tháng), đồng thời khi cần thiết trong những giai đoạn thị trường có biến động lớn, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Liên Bộ Công Thương – Tài chính về thời gian điều hành giá xăng dầu cho phù hợp với diễn biến thị trường từng giai đoạn (nội dung này thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ theo quy định hiện hành).
- Ưu điểm: Không làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp và phù hợp với những nội dung đã phân tích ở trên về cơ sở của việc sửa đổi và quy định tại Nghị định số 95/2021/NĐ-CP; có sự ổn định tương đối của giá xăng dầu để không ảnh hưởng đến công tác điều hành kinh tế vĩ mô của Chính phủ (do xăng dầu thuộc danh mục mặt hàng bình ổn giá theo quy định tại Luật Giá nên rất cần có sự ổn định).
- Nhược điểm: Chưa phù hợp với đề xuất của một số đơn vị có ý kiến rút ngắn thời gian điều hành giá nên khi giá xăng dầu thế giới vào giai đoạn tăng, các đơn vị này lại tiếp tục có kiến nghị (đề xuất này không phải là ý kiến của đa số các doanh nghiệp); mặc dù đây không phải là nguyên nhân của việc thiếu nguồn cung xăng dầu cục bộ thời gian qua nhưng trong trường hợp các nguyên nhân trực tiếp của những khó khăn về nguồn cung xăng dầu (việc tính đủ chi phí, hỗ trợ doanh nghiệp có đủ nguồn lực tài chính…) chưa được giải quyết dứt điểm, các đơn vị liên quan lại tiếp tục nêu vấn đề sửa đổi việc điều hành giá.
(ii) Phương án 2: Sửa đổi theo hướng rút ngắn thời gian điều hành/công bố giá xăng dầu xuống mức 7 ngày, quy định vào 1 ngày cụ thể là Thứ Năm hàng tuần. Trong giai đoạn giữa 02 kỳ điều hành, nếu giá cơ sở có biến động tăng trên 5%, Liên Bộ Công Thương – Tài chính sẽ thực hiện điều hành giá.
- Ưu điểm: Giá xăng dầu trong nước sẽ biến động gần hơn với biến động của giá xăng dầu thế giới. Khi giá tăng sẽ được sự ủng hộ của các doanh nghiệp.
- Nhược điểm: Do thời gian để thực hiện việc nhập khẩu xăng dầu từ nước ngoài về Việt Nam (từ lúc đặt hàng đến lúc hàng về đến cảng Việt Nam) thường cần khoảng 10-15 ngày nên khi thị trường có sự bất ổn theo xu hướng bất lợi cho doanh nghiệp, các doanh nghiệp sẽ tiếp tục có ý kiến về thời gian điều hành/công bố giá quá ngắn, ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp khó đoán định được giá trong nước khi nhập khẩu xăng dầu (đặc biệt khi vào chu kỳ giá đi xuống, ví dụ có thể xẩy ra sau khi xung đột giữa Nga và Ukraine kết thúc).
Về nội dung quy định mức chiết khấu tối thiểu trong kinh doanh xăng dầu
Trên thực tế, mức chiết khấu là mức giảm giá của đơn vị bán xăng dầu cho đơn vị mua xăng dầu so với giá bán lẻ xăng dầu. Nhà nước chỉ quản lý và điều hành giá bán lẻ mặt hàng xăng dầu (để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và điều hành kinh tế vĩ mô), không điều chỉnh mức chiết khấu trong kinh doanh xăng dầu. Điều này là phù hợp với thực tế do giá bán lẻ xăng dầu đã được Nhà nước điều hành và quy định mức giá trần nên mức chiết khấu là yếu tố để phản ánh tính thị trường, đồng thời, là yếu tố được điều chỉnh linh hoạt giúp các doanh nghiệp điều hành hoạt động kinh doanh phù hợp với biến động cung cầu, giá cả xăng dầu trên thị trường thế giới và trong nước.
Khi giá bán lẻ xăng dầu chưa được phản ánh đủ các chi phí phát sinh của doanh nghiệp từ đầu nguồn, các doanh nghiệp đầu mối cũng không thể cắt chiết khấu thỏa đáng cho các khách hàng mua buôn được. Nếu có quy định về mức chiết khấu cụ thể cho các đại lý sẽ cần bổ sung thêm một yếu tố chi phí trong phần chi phí kinh doanh được tính trong giá cơ sở, có thể làm tăng giá cơ sở mặt hàng xăng dầu.
Bên cạnh đó, thị trường bán buôn xăng dầu trong nước hiện đã tương đối cạnh tranh với sự tham gia của ngày càng nhiều chủ thể kinh doanh xăng dầu, Nhà nước không nên can thiệp sâu vào những thỏa thuận dân sự, phù hợp với quy định của pháp luật giữa các doanh nghiệp, giúp lĩnh vực kinh doanh xăng dầu phát triển theo định hướng kinh tế thị trường. Tuy nhiên, do cũng có các ý kiến của một số đơn vị về vấn đề này, trên cơ sở các nội dung phân tích trên, Thường trực Tổ biên tập đề xuất:
(i) Phương án 1: Không quy định cụ thể mức chiết khấu trong kinh doanh xăng dầu để các doanh nghiệp chủ động đàm phán với nhau cho phù hợp và linh hoạt với biến động cung cầu của thị trường trong từng giai đoạn.
- Ưu điểm: Bảo đảm sự chủ động trong mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu trên thị trường; không làm tăng giá cơ sở mặt hàng xăng dầu ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
- Nhược điểm: Khi kinh doanh gặp khó khăn, các đại lý sẽ tiếp tục kiến nghị về quyền lợi của họ (bất chấp việc các đơn vị cấp hàng đang bị lỗ).
(ii) Phương án 2: Quy định mức chiết khấu cố định hoặc tối thiểu trong kinh doanh xăng dầu.
- Ưu điểm: Bảo đảm lợi ích và được sự ủng hộ của các đại lý bán lẻ xăng dầu, là căn cứ để các đại lý bán lẻ xăng dầu yêu cầu các đơn vị cấp hàng duy trì chiết khấu cho khâu bán lẻ.
- Nhược điểm: Để hài hòa lợi ích của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, phải đưa mức chiết khấu cho từng khâu của hệ thống phân phối xăng dầu sẽ tạo ra sự cứng nhắc trong quan hệ mua bán xăng dầu giữa các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, để bảo đảm giá cơ sở mặt hàng xăng dầu phản ánh đủ các chi phí phát sinh cần đưa mức chiết khấu cố định hoặc tối thiểu này vào chi phí kinh doanh trong cơ cấu giá cơ sở mặt hàng xăng dầu, việc này làm tăng giá xăng dầu, ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng xăng dầu. Khi hoạt động kinh doanh xăng dầu gặp khó khăn, không có sự chia sẻ giữa các khâu trong hệ thống phân phối xăng dầu, các khó khăn sẽ được dồn hết đến doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu và do đó ảnh hưởng đến tổng thể nguồn cung xăng dầu trong nước.
Về nội dung cho phép các đại lý bán lẻ xăng dầu được lấy từ nhiều nguồn
Theo quy định tại Luật Thương mại, đại lý là đơn vị được bên giao đại lý giao hàng để bán theo giá của đơn vị giao đại lý và hưởng hoa hồng; bên giao đại lý phải chịu trách nhiệm về chất lượng, giá bán hàng hóa tại các đại lý. Mặt hàng xăng, dầu là hàng hóa ở thể lỏng, được chứa đựng chung tại bồn, bể, nên nếu cho phép đại lý bán lẻ xăng dầu lấy hàng từ nhiều nguồn, cơ quan quản lý nhà nước sẽ không kiểm soát và nắm được đầu mối chịu trách nhiệm về chất lượng, giá xăng dầu bán cho người tiêu dùng và không bảo đảm sự thống với quy định nêu trên của Luật Thương mại.
Do đó, theo quy định hiện hành, đại lý bán lẻ xăng dầu chỉ được lấy từ một nguồn (nội dung này hiện được quy định tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP và Nghị định số 95/2021/NĐ- CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 83/2014/NĐ-CP). Trong cùng một thời điểm, đại lý bán lẻ xăng dầu chỉ được lấy từ 01 nguồn để bảo đảm kiểm soát được nguồn gốc, chất lượng, giá bán xăng dầu đến người tiêu dùng.
Đồng thời, trên thị trường có rất nhiều đơn vị cung ứng xăng dầu (các thương nhân đầu mối, thương nhân phân phối với việc cung ứng khá cạnh tranh) nên đại lý bán lẻ xăng dầu có thể lựa chọn, thay đổi đơn vị cung cấp có uy tín để hợp tác kinh doanh lâu dài. Trường hợp cho phép đại lý lấy từ nhiều nguồn, khi có tình trạng khó khăn về nguồn cung như thời gian vừa qua có thể xảy ra tình trạng không đơn vị nào chịu trách nhiệm về việc cung cấp xăng dầu cho các cửa hàng bán lẻ của đại lý (tương tự như đối với các thương nhân phân phối hiện nay).
Ngoài ra, khi các đại lý lấy từ nhiều nguồn với mức giá khác nhau, theo quy định, đại lý không có quyền quyết định giá bán nên sẽ không biết bán theo giá của đơn vị nào. Tuy nhiên, theo kiến nghị của một số đơn vị, Thường trực Tổ biên tập xin đưa ra các phương án sửa đổi và phân tích ưu nhược điểm như sau:
(i) Phương án 1: Giữ nguyên quy định hiện hành về quyền của đại lý bán lẻ xăng dầu.
- Ưu điểm: Phù hợp với quy định của Luật Thương mại, giúp kiểm soát được chất lượng, giá bán xăng dầu đến người tiêu dùng; khi nguồn cung xăng dầu gặp khó khăn, có đơn vị chịu trách nhiệm về việc cung cấp xăng dầu cho đại lý để cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ đạo, xử lý.
- Nhược điểm: Trong cùng một thời điểm, đại lý không được lựa chọn nhiều nguồn cung cấp xăng dầu (các đại lý có thể lựa chọn đơn vị cung cấp xăng dầu khác khi đã thanh lý hợp đồng với đơn vị cung cấp cũ).
(ii) Phương án 2: Sửa đổi quy định về quyền của đại lý kinh doanh xăng dầu theo hướng cho phép đại lý kinh doanh xăng dầu được lấy từ nhiều nguồn (và có thể giới hạn từ 2-3 nguồn).
- Ưu điểm: Đa dạng nguồn cung cấp xăng dầu cho đại lý, tăng vị thế cho đại lý trong quá trình đàm phán mua hàng.
- Nhược điểm: Quy định không phù hợp với Luật Thương mại, khó kiểm soát được nguồn gốc, chất lượng, giá bán xăng dầu cho người tiêu dùng; khi nguồn cung xăng dầu gặp khó khăn, sẽ không có đơn vị đứng ra chịu trách nhiệm về nguồn cung cấp xăng dầu cho đại lý.
Về quyền nghĩa vụ của thương nhân phân phối và tổng đại lý kinh doanh xăng dầu
Hiện cả nước chỉ có 35 doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu mặt đất (không kể 04 doanh nghiệp chỉ kinh doanh nhiên liệu hàng không tại các sân bay). Hệ thống bán lẻ xăng dầu hiện có khoảng gần 17.000 cửa hàng phân bố khắp các vùng miền trên cả nước. Việc hình thành loại hình thương nhân phân phối xăng dầu với các điều kiện theo quy định tại Nghị định 83/2014/NĐ-CP và Nghị định số 95/2021/NĐ-CP về phương tiện vận tải, kho chứa xăng dầu, phòng kiểm nghiệm xăng dầu, hệ thống cửa hàng trực thuộc và đại lý... với quyền về nguồn hàng linh hoạt hơn đại lý bán lẻ xăng dầu đã hỗ trợ cho 35 thương nhân đầu mối phân bổ nguồn hàng đến các vùng miền trên cả nước, góp phần cung ứng tốt hơn xăng dầu cho tiêu dùng ở mọi miền đất nước.
Tuy nhiên, cũng do sự linh hoạt về nguồn hàng nên các thương nhân phân phối đã không được các doanh nghiệp đầu mối có trách nhiệm trong việc duy trì, bảo đảm nguồn hàng cung cấp khi nguồn cung xăng dầu trên thị trường gặp khó khăn. Từ phân tích trên, Thường trực Tổ biên tập đề xuất phương án sửa đổi về quyền và nghĩa vụ của thương nhân phân phối theo hướng:
(i) Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện hành về quyền của thương nhân phân phối xăng dầu.
- Ưu điểm: Bảo đảm sự linh hoạt cho thương nhân phân phối để có điều kiện phát triển, lớn mạnh dần, tăng khả năng cung ứng xăng dầu cho thị trường.
- Nhược điểm: Khi nguồn cung gặp khó khăn, các đơn vị cấp hàng sẽ không chịu trách nhiệm về việc cung ứng nguồn hàng cho thương nhân phân phối.
(ii) Phương án 2: Sửa đổi quyền của thương nhân phân phối không được mua hàng của thương nhân phân phối khác, chỉ được mua hàng từ đầu mối.
- Ưu điểm: Vẫn bảo đảm sự linh hoạt của thương nhân phân phối nhưng giảm được một đối tượng cung cấp hàng là đơn vị không chủ động được nguồn cung (từ nhập khẩu, hoặc mua từ các nhà máy) góp phần giảm thiểu rủi ro về đứt gãy nguồn cung liên tục cho thị trường.
- Nhược điểm: Thương nhân phân phối được lấy từ nhiều thương nhân đầu mối nên vẫn có những rủi ro về trách nhiệm cấp hàng cho thương nhân phân phối khi nguồn cung gặp khó khăn.
(iii) Phương án 3: Sửa đổi quy định về quyền của thương nhân phân phối theo hướng quy định thương nhân phân phối chỉ được lấy tối đa từ 03 thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu, không được lấy từ thương nhân phân phối xăng dầu khác và bổ sung nghĩa vụ đối với thương nhân phân phối xăng dầu về việc phải cập nhật thông tin dữ liệu vào phần mềm quản lý xăng dầu theo hướng dẫn của Bộ Công Thương.
- Ưu điểm: Tăng trách nhiệm của các đơn vị cấp hàng cho thương nhân phân phối khi nguồn hàng gặp khó khăn.
- Nhược điểm: Giảm sự linh hoạt của thương nhân phân phối trong việc tìm kiếm nguồn hàng, nhất là trong trường hợp địa bàn kinh doanh của thương nhân phân phối rộng.
Đối với tổng đại lý kinh doanh xăng dầu: xem xét loại bỏ bớt khâu trung gian trong hệ thống phân phối xăng dầu, theo đó, qua rà soát cho thấy, trong các chủ thể tham gia kinh doanh xăng dầu hiện nay, vai trò của tổng đại lý kinh doanh xăng dầu không nhiều và tạo ra thêm một nấc trung gian nên thời gian tới Bộ Công Thương đề xuất xem xét bỏ loại hình thương nhân là tổng đại lý kinh doanh xăng dầu trong hệ thống phân phối xăng dầu.
Về quyền và nghĩa vụ của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu
Theo quy định hiện hành, các quyền và nghĩa vụ của thương nhân đầu mối tại các Nghị định cơ bản đã đáp ứng yêu cầu tổ chức hoạt động kinh doanh bình thường của thương nhân đầu mối và công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu.
Tuy nhiên, giai đoạn vừa qua cho thấy, khi các doanh nghiệp gặp khó khăn (kinh doanh thua lỗ liên tục), một số thương nhân đầu mối đã kiến nghị về việc Nhà nước đưa ra yêu cầu về nghĩa vụ của thương nhân như việc duy trì nguồn cung liên tục cho thị trường hoặc duy trì dự trữ lưu thông bắt buộc, Nhà nước cần có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm việc thực hiện được các nghĩa vụ nêu trên của doanh nghiệp theo hướng bố trí nguồn ngân sách nhà nước dự phòng để sử dụng trong các tình huống khẩn cấp nhằm cung cấp nguồn vốn không lãi suất cho các doanh nghiệp khi cần thiết phải bổ sung nguồn cung (cao hơn mức tổng nguồn đã được phân giao) và cung ứng cho thị trường theo chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền (Chính phủ hoặc Bộ Công Thương); xem xét có phương án hỗ trợ về chi phí tài chính, lưu kho cho việc dự trữ lưu thông bắt buộc của doanh nghiệp để bảo đảm quyền lợi của doanh nghiệp (khi dữ trữ của Nhà nước còn hạn chế). Từ phân tích trên, Thường trực Tổ biên tập đề xuất một số phương án như sau:
(i) Phương án 1: Giữ nguyên các quy định như hiện hành về quyền của thương nhân đầu mối và bổ sung nghĩa vụ đối với thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu về việc phải cập nhật thông tin dữ liệu vào phần mềm quản lý xăng dầu theo hướng dẫn của Bộ Công Thương.
- Ưu điểm: Không phát sinh chi phí của Nhà nước trong việc khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường.
- Nhược điểm: Khi kinh doanh xăng dầu khó khăn, doanh nghiệp không được hỗ trợ để thực hiện các nghĩa vụ cung cấp hàng cho thị trường. Vì vậy, ảnh hưởng đến tổng thể nguồn cung xăng dầu trong nước.
(ii) Phương án 2: Bổ sung quy định về nghĩa vụ của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu phải bảo đảm nguồn cung xăng dầu liên tục cho thị trường (kể cả trường hợp vượt mức tổng nguồn đã được phân giao), đồng thời có quy định về biện pháp hỗ trợ tài chính (cấp vốn vay không lãi suất hoặc hỗ trợ lãi suất vay) để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ này theo chỉ đạo của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Xem xét có phương án quy định về việc tính chi phí duy trì dự trữ lưu thông bắt buộc của doanh nghiệp vào chi phí tính giá cơ sở mặt hàng xăng dầu hoặc Nhà nước có chính sách hỗ trợ từ ngân sách theo định mức (có thể tính theo mức chi phí dự trữ quốc gia) đối với khoản chi phí này.
- Ưu điểm: Tăng trách nhiệm của Nhà nước và doanh nghiệp trong việc bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường.
- Nhược điểm: Nhà nước phải bố trí nguồn ngân sách để hỗ trợ doanh nghiệp bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho thị trường.
Về ý kiến đề nghị giao một đầu mối quản lý đối với mặt hàng xăng dầu (Bộ Công Thương)
Theo chức năng nhiệm vụ được giao tại các Luật và Nghị định liên quan đến công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu gồm:
- Quản lý nhà nước về xăng dầu trong lĩnh vực giá:
Theo quy định tại Luật Giá, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực giá (Điều 8 Luật Giá).
Theo quy định tại Nghị định số 87/2017/NĐ-CP ngày 26 tháng 7 năm 2017 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính, Bộ Tài chính chủ trì thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực giá (Khoản 17 Điều 2).
Theo đó, Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành quy định về cơ chế quản lý giá hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; kiểm tra các yếu tố hình thành giá đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật; xây dựng, trình cấp có thẩm quyền quyết định giá hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá; quy định phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức sản xuất, kinh doanh lập phương án giá và làm cơ sở thẩm định các phương án giá, kiểm tra các yếu tố hình thành giá; phối hợp với các bộ, ngành hướng dẫn phương pháp định giá đối với các hàng hóa, dịch vụ thuộc thẩm quyền quyết định của các bộ, ngành; xây dựng, trình cấp có thẩm quyền điều chỉnh danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện bình ổn giá; danh mục mặt hàng được lập quỹ bình ổn giá và danh mục hàng hóa, dịch vụ thực hiện kê khai giá; xây dựng, trình Chính phủ quyết định chủ trương và biện pháp bình ổn giá; hướng dẫn và tổ chức thực hiện các biện pháp bình ổn giá theo quy định của pháp luật; thống nhất quản lý, chỉ đạo, kiểm tra và chịu trách nhiệm đối với quản lý quỹ dự trữ nhà nước và các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách theo quy định của pháp luật…
- Quản lý nhà nước về xăng dầu trong lĩnh vực chất lượng, đo lường:
Theo quy định tại Luật quản lý chất lượng hàng hóa, Bộ Khoa học và công nghệ chủ trì thực hiện việc xây dựng, ban hành hoặc trình Chính phủ ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược, 2 kế hoạch và văn bản quy phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa; thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm trong sản xuất theo phân công; tổ chức và chỉ đạo hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường, trong quá trình sử dụng liên quan đến an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân, thiết bị đo lường và hàng hóa khác trừ hàng hóa thuộc trách nhiệm của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quy định tại khoản 2 Điều 70 của Luật này…
Theo quy định tại Nghị định số 95/2017/NĐ-CP ngày 16 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học và công nghệ quản lý nhà nước về lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng; Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tổ chức quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong sản xuất, hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông trên thị trường và trong quá trình sử dụng theo quy định của pháp luật…
- Quản lý nhà nước về xăng dầu trong lĩnh vực phòng cháy chữa cháy
Theo quy định tại Luật Phòng cháy chữa cháy, Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng cháy và chữa cháy…
- Quản lý nhà nước về xăng dầu trong việc bảo đảm nguồn cung, lưu thông hàng hóa.
Theo quy định tại Nghị định số 98/2017/NĐ-CP ngày 18 tháng 8 năm 2017 của Chính phủ quy định chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương, Bộ Công Thương có trách nhiệm tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách về phát triển thương mại và bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa, các mặt hàng thiết yếu cho miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và đồng bào dân tộc theo quy định của pháp luật; về phương thức giao dịch và loại hình kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật; chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành chỉ đạo, điều tiết lưu thông hàng hóa; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính điều hành giá đối với một số mặt hàng theo quy định của pháp luật.
- Ngoài ra, liên quan đến lĩnh vực hải quan thuộc chức năng nhiệm vụ của Bộ Tài chính; lĩnh vực bảo vệ môi trường do Bộ Tài nguyên môi trường quản lý; vấn đề kiểm soát buôn lậu thuộc chức năng nhiệm vụ của Ban chỉ đạo quốc gia chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả (Ban chỉ đạo389)…
Như vậy, mặt hàng xăng dầu hiện chịu sự quản lý và điều chỉnh của nhiều văn bản quy phạm pháp luật và nhiều bộ, ngành khác nhau. Do đó, theo ý kiến của Bộ Công Thương, việc quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu cần có sự tham gia, phối hợp của các bộ, ngành chức năng theo từng lĩnh vực quản lý. Trên cơ sở nội dung phân tích nêu trên, Thường trực Tổ biên tập đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung nội dung này như sau:
(i) Phương án 1: Giữ nguyên các quy định hiện hành về chức năng nhiệm vụ của các Bộ, ngành trong phân công công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu. Tuy nhiên, làm rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan và bổ sung nội dung: “Thời gian điều chỉnh chi phí định mức rút xuống còn 01 Quý/lần. Nếu trong Quý có biến động tăng, giảm từ 5% trở lên thì cho phép điều chỉnh ngay”.
- Ưu điểm: Việc phân công phối hợp đã được thực hiện từ nhiều năm và phù hợp với chuyên môn nghiệp vụ, chức năng, nhiệm vụ của từng Bộ, ngành; Trong công tác điều hành giá xăng dầu, Bộ Tài chính rà soát và hướng dẫn việc xác định các chi phí để công bố cho Bộ Công Thương tính toán giá cơ sở mặt hàng xăng dầu nhằm bảo đảm có sự giám sát, kiểm tra các chi phí một cách chính xác, khách quan, minh bạch, đúng chuyên môn nghiệp vụ.
- Nhược điểm: Khi có vấn đề phát sinh cần có sự phối hợp giữa các Bộ, ngành để cùng xử lý.
(ii) Phương án 2: Đối với nội dung điều hành giá xăng dầu và rà soát, hướng dẫn, tính toán các chi phí kinh doanh xăng dầu đưa về một đầu mối là Bộ Tài chính thực hiện theo đúng chuyên môn nghiệp vụ và chức năng nhiệm vụ được giao. Các Bộ, ngành khác theo chức năng nhiệm vụ được giao, thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu theo quy định.
- Ưu điểm: Bảo đảm việc phân công công tác quản lý nhà nước về xăng dầu thực hiện theo đúng chức năng nhiệm vụ của các Bộ, ngành. Bộ Tài chính có chuyên môn nghiệp vụ về lĩnh vực tài chính sẽ thực hiện chính xác công tác tính toán, hướng dẫn và công bố giá điều hành đối với mặt hàng xăng dầu.
- Nhược điểm: Việc điều hành giá xăng dầu tách xa việc điều hành cung cầu xăng dầu nên sẽ có những bất ổn khi lợi ích giữa các chủ thể trên thị trường xăng dầu không được hài hòa; không có sự độc lập khách quan trong việc xác định, phản ánh các chi phí kinh doanh xăng dầu để bảo đảm tính công khai, minh bạch, chính xác trong giá cơ sở mặt hàng xăng dầu.
iii) Phương án 3: Đối với nội dung điều hành giá xăng dầu và rà soát, hướng dẫn, tính toán các chi phí kinh doanh xăng dầu đưa về một đầu mối là Bộ Công Thương thực hiện. Các Bộ, ngành khác theo chức năng nhiệm vụ được giao, thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu theo quy định.
- Ưu điểm: Có thể thống nhất đầu mối quản lý về giá và cung cầu mặt hàng xăng dầu về 01 cơ quan.
- Nhược điểm: Không bảo đảm sự phù hợp, thống nhất trong việc phân công, thực hiện nhiệm vụ theo chuyên môn, nghiệp vụ giữa các Bộ, Ngành hiện nay; dẫn tới sự chồng chéo trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ, Ngành; đồng thời có thể làm phát sinh thêm tổ chức bộ máy, biên chế để thực hiện nhiệm vụ.
Về quản lý và sử dụng Quỹ Bình ổn giá xăng dầu
Quỹ Bình ổn giá xăng dầu là Quỹ tài chính không nằm trong cân đối ngân sách nhà nước, toàn bộ nguồn trích lập, chi sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu để tham gia điều tiết, hỗ trợ cho mục tiêu bình ổn giá xăng dầu trong nước. Quỹ bình ổn giá xăng dầu hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, không phát sinh cơ chế quản lý tập trung và không phát sinh tổ chức bộ máy, không có cơ chế tài chính riêng.
Có một số ý kiến cho rằng nên bỏ Quỹ bình ổn giá xăng dầu vì không hiệu quả. Theo ý kiến của Bộ Công Thương, do Quỹ bình ổn giá xăng dầu là công cụ linh hoạt duy nhất để Nhà nước có thể điều hành mức tăng giảm giá xăng dầu trong từng kỳ điều hành giá. Nếu bỏ Quỹ bình ổn giá sẽ đồng nghĩa với việc bỏ điều hành giá xăng dầu. Thời gian qua, Quỹ BOG xăng dầu đã được Liên Bộ Công Thương – Tài chính sử dụng nhất quán cho mục tiêu bình ổn giá xăng dầu theo đúng quy định của pháp luật. Việc sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu đã phát huy tác dụng tích cực và hiệu quả trong việc tạo nên một “bước đệm” nhằm góp phần bình ổn giá (giữ ổn định hoặc giảm mức tăng) trong trường hợp cần thiết, linh hoạt trong việc bình ổn giá nhằm ổn định giá xăng dầu trong một thời kỳ hoặc không cho giá xăng dầu trong nước tăng quá mạnh, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng và ổn định an sinh xã hội.
Từ những nội dung phân tích nêu trên Thường trực Tổ biên tập đề xuất phương án quy định đối với Quỹ bình ổn giá xăng dầu như sau:
(i) Phương án 1: Giữ nguyên quy định về quản lý Quỹ bình ổn giá hiện hành.
- Ưu điểm: Nhà nước duy trì được một công cụ điều hành giá khá linh hoạt, không phát sinh chi ngân sách và bộ máy vận hành, bảo đảm can thiệp bình ổn giá xăng dầu một cách hiệu quả, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Quỹ bình ổn giá được hình thành dựa trên mức ứng trước trong giá xăng dầu khi giá thấp để bù vào giá khi giá xăng dầu tăng cao nhằm hạn chế biên độ biến động của giá xăng dầu trong một giai đoạn nhất định, phù hợp với mục tiêu điều hành kinh tế vĩ mô chung của Chính phủ trong từng thời kỳ, hạn chế mức tác động tâm lý đến thị trường các mặt hàng khác.
- Nhược điểm: Do Quỹ bình ổn giá được hình thành dựa trên mức ứng trước trong giá xăng dầu khi giá thấp để bù vào giá khi giá xăng dầu tăng cao nên khi giá thế giới giảm, giá xăng dầu trong nước cũng được điều chỉnh giảm nhưng mức giảm không tương ứng (một phần giảm đã được trích vào Quỹ bình ổn giá) dẫn đến những thắc mắc từ phía người tiêu dùng. Trường hợp số dư Quỹ bình ổn âm, doanh nghiệp phải vay vốn để bù đắp, ngân hàng thương mại không có cơ chế tín dụng riêng hỗ trợ doanh nghiệp, gây thiệt hại cho doanh nghiệp.
(ii) Phương án 2: Tiếp tục giữ công cụ Quỹ bình ổn giá xăng dầu để điều hành giá xăng dầu, tuy nhiên có sửa đổi theo hướng quy định nguyên tắc sử dụng công cụ Quỹ bình ổn giá cụ thể (như đề xuất tại phương án 2, mục 1 nêu trên), theo đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ can thiệp điều hành giá thông qua việc điều chỉnh mức trích lập, chi Quỹ bình ổn giá khi giá xăng dầu công bố kỳ này so với kỳ công bố giá liền trước có biến động tăng từ 10% trở lên hoặc giảm từ 7% trở lên. Phương án này để vừa bảo đảm Nhà nước có thể điều hành khi cần thiết nhưng giảm dần sự can thiệp của Nhà nước vào giá xăng dầu.
- Ưu điểm: Nhà nước vẫn có công cụ để điều hành giá xăng dầu khi cần thiết nhằm thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời có sự điều chỉnh theo hướng giảm dần sự can thiệp của Nhà nước vào giá xăng dầu trên thị trường, đưa mặt hàng xăng dầu dần vận hành theo thị trường.
- Nhược điểm: Các doanh nghiệp tiếp tục phải thực hiện việc trích lập và chi sử dụng Quỹ bình ổn giá xăng dầu theo chỉ đạo điều hành của Nhà nước; giá xăng dầu tiếp tục có sự can thiệp của Nhà nước nên sẽ có những ý kiến thắc mắc, thậm chí không đồng thuận nhất định khi Nhà nước thực hiện việc điều hành giá chưa phù hợp với lợi ích của một số doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng (khi giá tăng không được tăng hết hoặc khi giá giảm không được giảm hết theo biến động của giá thế giới).
(ii) Phương án 3: Bỏ Quỹ bình ổn giá xăng dầu, Nhà nước chỉ quy định công thức tính giá chung, công bố một số khoản trong cơ cấu giá định hướng (gồm giá thế giới, các loại thuế, phí thu vào ngân sách Nhà nước), doanh nghiệp tự xác định chi phí thực tế của doanh nghiệp cùng với các yếu tố do Nhà nước công bố để tính giá bán xăng dầu của đơn vị mình ra thị trường và tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của các mức chi phí phát sinh trước pháp luật (Nhà nước thực hiện hậu kiểm để giám sát việc xác định các mức chi phí nêu trên).
- Ưu điểm: Tạo sự linh hoạt hoàn toàn cho doanh nghiệp, giá bán xăng dầu phù hợp với các chi phí phát sinh của từng doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp bảo đảm duy trì hoạt động kinh doanh và cung cấp xăng dầu ổn định hơn cho thị trường; tăng mức độ cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
- Nhược điểm: Nhà nước không có công cụ để can thiệp và điều tiết để điều hành kinh tế vĩ mô chung (do xăng dầu là đầu vào quan trọng của đời sống kinh tế xã hội), đặc biệt khi giá xăng dầu tăng cao hoặc vào những giai đoạn nhạy cảm như lễ, Tết, thị trường có nhiều biến động và làm giá của các mặt hàng khác nhau tăng theo (do tại Việt Nam có hiện tượng “lạm phát kỳ vọng”, “lạm phát tâm lý”) và khi giá xăng dầu giảm thì giá các mặt hàng khác lại không giảm theo tương ứng. Tại một số địa bàn có mức độ cạnh tranh thấp, không khuyến khích các doanh nghiệp tiết giảm chi phí để giảm giá bán cho người tiêu dùng hoặc doanh các doanh nghiệp có thể câu kết với nhau để cùng tăng giá bán, ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng.
Về phương thức phân giao tổng nguồn xăng dầu tối thiểu
Theo ý kiến của Hiệp hội Xăng dầu Việt Nam và một số doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu, việc phân giao tổng nguồn xăng dầu tối thiểu cần được thực hiện theo hướng phân giao cụ thể cả nguồn trong nước và nguồn nhập khẩu, đồng thời có quy định cụ thể về tiến độ thực hiện tổng nguồn.
Theo quy định hiện hành, việc phân giao tổng nguồn xăng dầu tối thiểu được thực hiện theo hướng Nhà nước chỉ giao tổng nguồn xăng dầu phải thực hiện hàng năm của doanh nghiệp, không can thiệp vào cơ cấu nguồn và thời gian thực hiện cụ thể của doanh nghiệp, Nhà nước chỉ can thiệp khi cần thiết. Quy định nêu trên nhằm tăng tính tự chủ trong thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp, Nhà nước chỉ can thiệp khi nguồn cung trên thị trường có biến động bất thường.
Tuy nhiên, sau khủng hoảng nguồn cung thời gian vừa qua, mặc dù nguyên nhân không phải do quy định này (như Bộ Công Thương đã phân tích các nguyên nhân tại các báo cáo Thủ tướng Chính phủ), trên cơ sở kiến nghị của các đơn vị, Thường trực Tổ biên tập đề xuất phương án rà soát đối với nội dung này như sau:
(i) Phương án 1: Giữ nguyên quy định như hiện hành về phân giao tổng nguồn xăng dầu tối thiểu.
- Ưu điểm: Tăng tính tự chủ về thực hiện kế hoạch kinh doanh cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp linh hoạt trong việc lựa chọn thời điểm nhập khẩu, mua xăng dầu trong nước để vừa bảo đảm cung ứng đủ xăng dầu trong hệ thống kinh doanh của mình vừa bảo đảm hiệu quả kinh doanh, duy trì hoạt động cung ứng xăng dầu lâu dài cho thị trường.
- Nhược điểm: Khi nguồn cung trong nước thuận lợi, các doanh nghiệp giảm trách nhiệm nhập khẩu và ngược lại. Nhà nước không có sự can thiệp, giám sát chặt chẽ việc thực hiện tổng nguồn được phân giao cho các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu.
(ii) Phương án 2: Sửa đổi, bổ sung quy định về phân giao tổng nguồn xăng dầu tối thiểu theo hướng quy định chi tiết nguồn trong nước và nguồn nhập khẩu, đồng thời xem xét quy định tiến độ thực hiện tổng nguồn xăng dầu tối thiểu.
- Ưu điểm: Bảo đảm việc thực hiện tổng nguồn xăng dầu cung ứng cho thị trường được kiểm soát chặt chẽ hơn, phân giao cụ thể nguồn mua và tiến độ để cung ứng xăng dầu cho thị trường nhằm bảo đảm duy trì nguồn cung xăng dầu cho thị trường.
- Nhược điểm: Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp, giảm tính linh hoạt cho doanh nghiệp trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh nhưng không có sự hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp để thực hiện nghĩa vụ trên. Khi gặp khó khăn, kinh doanh thua lỗ, doanh nghiệp sẽ đẩy trách nhiệm cho việc Nhà nước do việc quy định cứng nhắc, can thiệp vào việc thực hiện kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Về dự trữ lưu thông bắt buộc
Theo ý kiến của một số doanh nghiệp và Sở Công Thương, đề nghị xem xét quy định cụ thể về cách tính dự trữ lưu thông, giảm thời gian dự trữ lưu thông hoặc có chính sách hỗ trợ việc thực hiện nghĩa vụ dự trữ lưu thông bắt buộc. Theo quy định hiện hành, thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu phải thực hiện việc dự trữ lưu thông bắt buộc tương đương 20 ngày tiêu thụ bình quân của năm liền kề trước; thương nhân phân phối xăng dầu phải thực hiện việc lưu thông bắt buộc tương đương 05 ngày tiêu thụ bình quân của năm liền kề trước. Việc quy định này nhằm bảo đảm nguồn cung xăng dầu khi thị trường có biến động bất thường trong một khoảng thời gian nhất định để doanh nghiệp có thời gian bổ sung nguồn cung xăng dầu cho thời gian tiếp theo.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua, khi hoạt động kinh doanh xăng dầu gặp khó khăn, việc thực hiện nghĩa vụ nêu trên đã trở thành gánh nặng cho doanh nghiệp, doanh nghiệp phải bỏ thêm chi phí kinh doanh nhưng chi phí này chưa được tính cụ thể vào giá xăng dầu điều hành của nhà nước gây bất lợi cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, trong quá trình thanh tra, kiểm tra, một số đơn vị chức năng có thắc mắc về cách xác định lượng dự trữ lưu thông cụ thể của từng doanh nghiệp… Từ những vấn đề trên, Thường trực Tổ biên tập đề xuất rà soát nội dung này theo hướng.
(i) Phương án 1: Giữ nguyên quy định về dự trữ lưu thông bắt buộc, các quy định về thời gian dự trữ đã được quy định theo sản lượng tiêu thụ bình quân của năm liền kề trước.
- Ưu điểm: Không phát sinh trách nhiệm cần hỗ trợ cho doanh nghiệp trong việc thực hiện dự trữ lưu thông bắt buộc.
- Nhược điểm: Chưa rà soát ý kiến về phương pháp tính số lượng xăng dầu cần thực hiện dự trữ lưu thông bắt buộc theo quy định. Khi kinh doanh gặp khó khăn, các doanh nghiệp tiếp tục có ý kiến về trách nhiệm quy trì dự trữ lưu thông bắt buộc.
(ii) Phương án 2: Sửa đổi quy định theo hướng rà soát lại phương pháp tính số ngày dự trữ lưu thông bắt buộc, có phương án hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với các chi phí phát sinh để thực hiện nghĩa vụ dự trữ lưu thông bắt buộc (thông qua hỗ trợ từ ngân sách hoặc tính vào giá điều hành).
- Ưu điểm: Tăng tính trách nhiệm của thương nhân kinh doanh xăng dầu trong việc bảo đảm duy trì dự trữ lưu thông bắt buộc; quy định cụ thể phương pháp tính số ngày dự trữ để làm căn cứ cho việc thanh tra, kiểm tra việc thực thi pháp luật trong kinh doanh xăng dầu của doanh nghiệp.
- Nhược điểm: Phát sinh thêm trách nhiệm tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp trong việc thực hiện dự trữ lưu thông bắt buộc.
Rà soát các điều kiện về kinh doanh xăng dầu
Hiện nay, theo các ý kiến góp ý gửi về Bộ Công Thương đang có các luồng ý kiến rất khác nhau về vấn đề này. Một số ý kiến đề xuất nên giảm một số điều kiện về kinh doanh xăng dầu hiện hành. Một số ý kiến đề xuất nên tăng điều kiện, siết lại việc gia nhập thị trường xăng dầu của các thương nhân kinh doanh xăng dầu do cho rằng Việt Nam có nhiều đầu mối kinh doanh xăng dầu so với các nước trong khu vực. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của Bộ Công Thương, khái niệm đầu mối kinh doanh xăng dầu ở các nước là doanh nghiệp thực hiện từ khâu sản xuất, bán buôn, bán lẻ xăng dầu, theo đó hiện Việt Nam chưa có đơn vị nào có đủ các hoạt động trên.
Tại Việt Nam hiện chỉ có 02 đơn vị sản xuất xăng dầu là 02 Nhà máy Nghi Sơn và Bình Sơn; các thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu hiện tại (theo khái niệm tại Nghị định số 83/2014/NĐ-CP và Nghị định số 95/2021/NĐ-CP) có quyền kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu và mua từ các Nhà máy thì các nước trong khu vực có rất nhiều và hầu như không giới hạn việc gia nhập thị trường (Singapore có khoảng 500 doanh nghiệp, Trung Quốc có khoảng 460 doanh nghiệp, Nhật Bản cũng có rất nhiều doanh nghiệp và không đưa ra điều kiện gia nhập thị trường với các doanh nghiệp này).
Trên cơ sở các luồng ý kiến nêu trên, Thường trực Tổ biên tập đề xuất rà soát quy định về điều kiện theo hướng:
(i) Phương án 1: Rà soát giảm một số điều kiện đối với doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh xăng dầu.
- Ưu điểm: Tăng thêm số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường xăng dầu, giúp tăng tính cạnh tranh trên thị trường xăng dầu, làm cơ sở cho việc đưa dần mặt hàng xăng dầu vận hành theo cơ chế thị trường.
- Nhược điểm: Nhiều doanh nghiệp tham gia thị trường sẽ phát sinh thêm yêu cầu về nguồn nhân lực để bảo đảm việc thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu.
(ii) Phương án 2: Rà soát tăng điều kiện đối với doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh xăng dầu.
- Ưu điểm: Nhằm hạn chế việc gia nhập thị trường xăng dầu đối với các doanh nghiệp khi chưa bảo đảm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước. Giảm số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường xăng dầu để công tác quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu được thuận lợi hơn.
- Nhược điểm: Việc tăng điều kiện về kinh doanh có thể gặp phải vướng mắc do đi ngược với chủ trương hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp (thông qua việc cắt giảm điều kiện kinh doanh) của Chính phủ và một số lãnh đạo cấp cao. Tạo rào cản cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, không phù hợp với tinh thần Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 về việc phát triển kinh tế tư nhân trong đó coi kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hạn chế mức độ cạnh tranh trên thị trường xăng dầu trong nước; gặp phải phản ứng của một số Bộ, ngành chủ trì, giám sát về điều kiện kinh doanh như Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tư pháp hoặc những đơn vị bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp như Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và đặc biệt là sự phản ứng của các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh xăng dầu.
(iii) Phương án 3: Cơ bản giữ nguyên các quy định hiện hành về điều kiện kinh doanh xăng dầu, rà soát lại và quy định cụ thể hơn với những điều kiện có thể gây ra những cách hiểu khác nhau (có thể được hướng dẫn tại Thông tư hướng dẫn).
- Ưu điểm: Trước mắt, các điều kiện hiện hành vẫn tương đối phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh xăng dầu. Không đi ngược với chủ trương hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp.
- Nhược điểm: Chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra khi thị trường có nhiều bất ổn, có những quan điểm muốn quản lý chặt chẽ hơn thị trường xăng dầu thông qua việc tăng điều kiện kinh doanh để giảm số lượng doanh nghiệp tham gia thị trường.
Rà soát một số nội dung khác
Xem xét thêm các nội dung về trường hợp đình chỉ, thu hồi Giấy phép, Giấy chứng nhận kinh doanh xăng dầu cho phù hợp với thực tiễn phát sinh.
Theo quy định hiện hành, việc thu hồi Giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu (Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu) được Bộ Công Thương thực hiện khi doanh nghiệp vi phạm một trong số các lỗi sau: “thương nhân không hoạt động kinh doanh xăng dầu trong thời gian một (01) quý trở lên; thương nhân không thực hiện đủ tổng nguồn tối thiểu được Bộ Công Thương giao trong hai (02) năm liên tiếp; thương nhân bị phá sản theo quy định của pháp luật; thương nhân không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định tại Điều 7 Nghị định này; thương nhân không dự trữ xăng dầu theo đúng quy định tại Điều 31 Nghị định này; thương nhân vi phạm nhiều lần quy định về bảo đảm chất lượng xăng dầu lưu thông trên thị trường tại Nghị định này và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật”...
Đối với các lỗi như: thương nhân không đáp ứng đủ điều kiện về số lượng đại lý, cửa hàng trực thuộc theo quy định tại Nghị định và thương nhân không dự trữ xăng dầu theo đúng quy định tại Điều 31 của Nghị định, đây là những lỗi doanh nghiệp rất hay mắc phải trong quá trình kinh doanh. Do hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp luôn có biến động, phụ thuộc vào tình hình thị trường từng giai đoạn nên có những thời điểm có doanh nghiệp không có đủ 40 đại lý bán lẻ xăng dầu (hoặc 10 cửa hàng thuộc các đại lý đối với thương nhân phân phối), 10 cửa hàng trực thuộc (05 cửa hàng đối với thương nhân phân phối) trong hệ thống; tồn kho xăng dầu có những giai đoạn phải tăng mạnh lượng bán cho thị trường để duy trì việc cung ứng xăng dầu cho thị trường, trong khi hàng chưa về kịp (có thể do các yếu tố khách quan như thời tiết, dịch bệnh, hoặc chủ quan do đặt hàng chậm…) nên lượng hàng tồn kho không đủ 20 ngày dự trữ đối với thương nhân đầu mối (05 ngày đối với thương nhân phân phối) theo quy định. Các lỗi này nếu ở mức độ nhẹ, không thường xuyên và kéo dài về cơ bản không làm ảnh hưởng đến thị trường và gây hậu quả gì.
Tuy nhiên, khi vi phạm các lỗi này doanh nghiệp sẽ bị thu hồi Giấy phép theo quy định, việc này có thể dẫn đến những hệ lụy rất lớn cho thị trường về việc đứt gãy nguồn cung ở một số khu vực mà doanh nghiệp đang kinh doanh. Do đó, cần rà soát nội dung này và sửa đổi theo hướng nếu doanh nghiệp có vi phạm (vi phạm hành chính): vi phạm lần 1 sẽ xử phạt vi phạm hành chính ở mức cao; khi vi phạm lần 2 (sau 03 tháng đối với thương nhân đầu mối và 30 ngày đối với các đối tượng còn lại kể từ khi công bố quyết định vi phạm lần 1) tiếp tục xử phạt vi phạm hành chính nặng hơn; khi vi phạm lần 3 thì thu hồi giấy phép hoạt động.
Đối với nội dung về đình chỉ hoạt động kinh doanh xăng dầu: Chỉ thực hiện khi doanh nghiệp vi phạm về buôn lậu, chất lượng hoặc đang bị cơ quan chức năng điều tra, xử lý.
Bổ sung thêm quy định về thực hiện các báo cáo tại phần mềm quản lý nhà nước đối với mặt hàng xăng dầu theo hướng dẫn của Bộ Công Thương.