Một trong bốn “tứ mỹ Hà thành” là giai nhân Đỗ Thị Bính. Bà sinh năm 1915, tại ngôi nhà số 37 Hàng Đẫy. Phố Hàng Đẫy bây giờ đã được đổi tên thành phố Nguyễn Thái Học. Căn nhà số 37 cũng được đổi thành số nhà 67. Ngôi nhà xưa không có thay đổi, theo lối kiến trúc của Pháp dành cho những gia đình thượng lưu thời bây giờ. Trước nhà, giàn hoa hồng gai vẫn còn đó, như là chứng tích hiếm hoi gắn liền với những câu chuyện về tuyệt thế giai nhân.
Đỗ Thị Bính là 1 trong 19 người con của nhà tư sản Đỗ Lợi - nhà thầu khoán thuộc hàng lớn nhất Hà Nội trước những năm 1930 và là một trong những thành viên của dòng họ Đỗ “Bá Già” (thôn Tiên Lữ, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc). Cụ Đỗ Lợi (1893-1961) trước năm 1945 là nhà tư sản kinh doanh vật liệu xây dựng. Thân sinh ra cụ Đỗ Lợi là cụ Đỗ Văn Kỳ, tự Phúc Thiện. Cụ Đỗ Văn Kỳ là Chánh tổng thời cũ, là người mẫn thế, nhìn xa trông rộng và rất gần gũi với mọi người, nên người dân quý mến gọi là cụ Bá Già. Các con của cụ trong đó có cụ Đỗ Lợi đều ra Hà Nội lập nghiệp và thành đạt ở trong và ngoài nước.
Vợ chồng người đẹp Đỗ Thị Bính |
Tốt nghiệp tú tài, cụ Đỗ Lợi rời quê lên lập nghiệp tại đất kinh kỳ vào những năm đầu của thế kỷ 19. Lên Hà Nội, cụ Đỗ Lợi lấy bà Nguyễn Thị Quỹ, một người con gái xinh đẹp, sắc sảo làm nghề buôn bán tại Phà Đen làm lẽ. Đỗ Thị Bính là người con đầu trong ba người con của cụ Lợi và cụ Quỹ. Với tài thao lược của cụ Quỹ, sự nghiệp, tiền tài của nhà tư sản Đỗ Lợi bắt đầu “phất” lên nhanh chóng.
Năm 1930, cụ Đỗ Lợi mua lại xưởng gạch hoa Vạn Cẩm của một Hoa kiều (ở giữa Ngõ Văn Hương, nay là số 95 Tôn Đức Thắng). Gọi là trại vì xưởng gạch nằm trong khuôn viên rất rộng, trong đó có một hồ lớn. Vừa sản xuất gạch hoa, cụ Lợi vừa nuôi ngựa đua.
Xung quanh hồ, cụ trồng dừa, nhãn và trồng cỏ đủ cho việc nuôi và huấn luyện ngựa cho tới tận năm 1945. Dân ở đây gọi địa điểm này là trại Đỗ Lợi, trong đó có hồ Đỗ Lợi. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc trong cuốn “Phố và đường Hà Nội” (Nhà xuất bản Giao thông Vận tải - 2004) có nhắc đến chi tiết này. Ngách 28, ngõ Văn Hương ngày nay, người dân vẫn gọi là ngõ Đỗ Lợi và đã có một thời kỳ dài chính quyền treo bảng mang tên cụ. Hồ Đỗ Lợi sau nhiều năm bị lấn chiếm, nay đã thành khu dân cư. Di tích hồ còn lại hiện nay là một sân chơi rộng khoảng 500 m2 ở hẻm 28/39 ngõ Văn Hương.
Công việc kinh doanh phát đạt. Cụ Đỗ Lợi chuyển sang lĩnh vực thầu khoán. Có tới gần 20 công trình lớn nhất Hà Nội khi đó đều do cụ Lợi làm chủ thầu.
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, cụ Đỗ Lợi hồ hởi đón chào chế độ mới. Trong tuần lễ vàng góp phần kiến quốc, cụ đã làm chủ tịch tuần lễ vàng khu Văn Miếu cũ. Hòa bình lập lại, từ năm 1954, gia đình cụ Đỗ Lợi ở lại Hà Nội và trong những đợt cải tạo công thương nghiệp, cụ đã hiến 18 ngôi nhà cho chính phủ.
Trong 3 người con giữa cụ Đỗ Lợi và cụ bà Nguyễn Thị Quỹ, Đỗ Thị Bính là người con gái cả xinh đẹp, nết na, sắc nước hương trời Hà thành thuở đó. Sau Đỗ Thị Bính là người em trai có tên Đỗ Huân. Sau này, Đỗ Huân đã trở thành một tên tuổi lớn trong làng nhiếp ảnh Việt Nam, người đầu tiên nhận giải thưởng ảnh quốc tế cho tác phẩm “Hạnh phúc” và cũng là người trực tiếp lưu giữ những hình ảnh về thời xuân sắc của người chị gái xinh đẹp bậc nhất Hà thành, Đỗ Thị Bính, lúc bấy giờ.
Con trai út của người đẹp Đỗ Thị Bính chia sẻ những kỷ niệm về mẹ |
Sinh thời, bà Bính có thói quen mặc đồ đen. Có lẽ, đó cũng là lý do để người đời gọi bà là “người đàn bà áo đen”. Áo dài tay hay áo ngắn tay, tuyền là gam màu đen sang trọng. Sự tinh tế của người đẹp thường biết sử dụng những màu quần áo thích hợp để tôn lên vẻ đẹp của mình, dù nhiều lúc đó là những trang phục giản dị và dân dã. Màu đen đã làm cho vẻ đẹp của bà Bính thêm vẻ huyền bí, tôn thêm làn da trắng và sự sang trọng, nghiêm trang của người đẹp.
Cách mạng nổ ra. Cả nước cuốn theo cuộc chiến đấu bi hùng. Cả Hà Nội hừng hực khí thế chiến đấu với phong trào “tiêu thổ kháng chiến”. Gia đình bà Bính cũng không là ngoại lệ. Một thời gian, bà Bính hoạt động trong phong trào bình dân học vụ, rồi cả gia đình bà theo kháng chiến, đi tản cư lên huyện Sơn Dương (Tuyên Quang) và ở trong ngôi nhà nhỏ dưới chân núi. Phía trước ngôi nhà là con sông nước lúc nào cũng dềnh đầy hai bờ. Thói quen và cách sống của người Tràng An thanh lịch vẫn không bị đánh mất. Những chuẩn mực của lễ giáo phong kiến về tam tòng, tứ đức, nữ công gia chánh… mà bà Bính được thụ hưởng khi còn ở Hà Nội, đã cứu sống bà và gia đình những năm tháng tản cư thiếu thốn mọi bề. Bà ở nhà dạy dỗ con cái cho chồng đi kháng chiến, cải thiện đời sống bằng nghề làm bánh. Bằng sự khéo tay và đảm đang, bà làm đủ các loại bánh rất Hà Nội như: Bánh quấn thừng, bánh xốp, kẹo… để bán trong những phiên chợ quê hoặc bán mối cho các hàng quán ở vùng Sơn Dương. Tại nơi ở mới, bà làm một mảnh vườn nho nhỏ, trồng rau, nuôi gà, làm nước mắm…
Cuộc sống nơi thôn quê không làm bà khó khăn, ngược lại bà thích nghi và hòa nhập rất nhanh. Bà mang những kiến thức về nghề thuốc để chữa bệnh cho bà con vùng miền núi Sơn Dương, ân cần chăm chút bệnh tình của họ, tiêm thuốc chống sốt rét…, nhưng bà chẳng nhận tiền công của ai. Đó là sự cưu mang, đùm bọc và sẻ chia của một người đẹp có học thức và vẹn toàn tiết hạnh. Bà con vùng Sơn Dương yêu mến gọi bà Bính là “bà tiên kháng chiến” hay “bà ké kháng chiến”, với tình cảm tri ân xuất phát từ nơi sâu thẳm đáy lòng.
Kháng chiến chống Pháp thành công, bà cùng gia đình trở về Hà Nội, tại căn nhà số 67 Nguyễn Thái Học (năm 1954). Sự thông minh, khéo léo giúp bà chế biến nên những món ẩm thực đậm chất Tràng An: Bún thang, ốc hấp lá gừng, bún ốc, chè kho… Năm 1992, bà Bính mất tại bệnh viện Bạch Mai. Trở về với đất, gia đình, người thân và bạn bè khoác cho bà bộ quần áo đen quen thuộc, như là một sự trân trọng người đẹp mang áo đen mà cả cuộc đời, vì yếu tố lịch sử, đã không có cơ hội để cái đẹp của bà được tôn vinh như những người đẹp bây giờ.