Vùng nguyên liệu mía tại Việt Nam: Cố mấy vẫn thiếu
Những năm trước, mía được xem là cây trồng “xoá đói giảm nghèo” nhờ tính thích ứng và hiệu quả kinh tế cao. Công dụng đa dạng trong nhiều ngành công nghiệp, cây mía từng bước xác định được tính ổn định của mình. Tuy nhiên, vì sự cạnh tranh cây trồng, tính ổn định của nó bị xếp sau lợi nhuận ngắn hạn của các loại cây thời vụ khác rủi ro hơn.
![]() |
Về hiệu quả kinh tế, các loại cây ăn trái, cao su, mì, keo… tuy có rủi ro cao nhưng lợi nhuận dao động từ 30 – 50 triệu/ha, nhỉnh hơn so với cây mía tùy vào khu vực như đồi núi, vùng nhỏ lẻ, vùng diện tích lớn...
So với niên vụ trước, niên vụ 20/21 giá mía nguyên liệu tăng khoảng 200.000 đồng/tấn, nhưng vẫn là năm khó khăn chung của ngành mía đường do thiếu diện tích, nguồn cung, và nông dân thì tiếp tục chuyển sang trồng cây khác, dẫn đến sản lượng mía giảm.
Theo báo cáo của Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, vụ 2019/2020 so với vụ 2018/19 thì, tổng diện tích trồng mía vụ là 182.599 ha, giảm 18,4% (223.847 ha); năng suất mía bình quân đạt 61,5 tấn/ha, giảm 1,9% (62,7 tấn/ha); dẫn tới sản lượng mía chỉ đạt 11.235.984 tấn, giảm 20,0% (14.042.789 tấn). Đến vụ 2020/21, dù đã có nhiều biến chuyển tích cực từ thị trường thì diện tích vùng nguyên liệu chỉ còn 127.446 ha, sản lượng mía toàn vụ chỉ đạt 7.498.060 tấn, giảm mạnh 34% so với vụ 2019/2020.
![]() |
Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản tổng hợp từ số liệu báo cáo của các địa phương |
Nhà máy “chết đuối trên cạn”
Tính đến hiện tại vụ 20/21, chỉ còn 26 nhà máy còn hoạt động. Trên 60 giống mía đang được trồng tại Việt Nam. Tuy nhiên, trên 98% đều là các giống nhập từ nước ngoài, việc nghiên cứu, lai tạo phát triển giống mới có tính bản địa cao, thích nghi với điều kiện Việt Nam còn rất hạn chế.
Ở góc nhìn khác, dù các công ty Mía đường đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm tăng năng suất, giảm giá thành canh tác mía, tăng lợi nhuận cho nông dân nhưng việc triển khai gặp nhiều khó khăn, phần vì diện tích canh tác còn nhỏ lẻ, phần vì lệ thuộc vào nguồn cung lao động thủ công vốn đang ngày càng khan hiếm và chi phí cao. Hiện nay, độ tuổi trung bình của người trồng mía lại tương đối cao từ 45-65 tuổi, phần lớn đã theo cây mía hàng chục năm trong khi lực lượng lao động trẻ lại không thiết tha với cây mía như lớp người trước. Sự thiếu hụt thế hệ nông dân kế thừa cũng là một vấn đề nhức nhối khiến ngành mía đường trì trệ, đất cho mía ngày càng bị thu hẹp.
Diện tích vùng nguyên liệu mía toàn Việt Nam hiện chỉ còn khoảng 127 nghìn ha, trong đó hơn 27 nghìn ha đứng trước nguy cơ chuyển đổi sang cây trồng khác. Trong điều kiện năng suất mía 60 tấn mía/ha có chữ đường 10 CCS, sản xuất được khoảng 760 nghìn tấn đường. Với điều kiện tối ưu, có thể đạt bình quân 80 tấn/ha mía có chữ đường 10 CCS, nhưng tạo ra chỉ xấp xỉ 1 triệu tấn đường. Nhu cầu sử dụng đường ở nước ta hiện khoảng 2 triệu tấn, và theo dự báo thì có thể tăng lên 2,5 triệu tấn vào năm 2025. Cầu tăng nhưng cung không đủ đáp ứng đủ. Dự báo sản lượng mía nội địa năm nay sẽ thiếu trầm trọng từ 1 - 1,3 triệu tấn đường.
Sự thiếu hụt này khiến các nhà máy đường hoạt động không hiệu quả, thậm chí nhiều nơi phải đóng cửa do không thể chạy dưới công suất. Trước khi chờ nhà nước đưa ra những chính sách can thiệp hỗ trợ thì nguy cơ đường lậu tràn vào là rất cao. Khi bài toán tái phát triển vùng nguyên liệu còn gặp nhiều thử thách, việc đảm bảo nguồn cung đường cho thị trường trong nước cần các Bộ Ngành, đặc biệt là Bộ Công thương có giải pháp căn cơ và tức thời để bình ổn thị trường.