CôngThương - Hội Nhà báo Việt Nam đã tổ chức nhiều hoạt động, hướng về kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, trong đó có chương trình “Ký ức Điện Biên”. Xin ông cho biết lý do và mục đích của chương trình này?
Có thể nói, chương trình là bức tranh toàn diện về vai trò của báo chí cách mạng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Những nhà báo- chiến sĩ đã hoạt động một cách thầm lặng, vượt qua bao khó khăn, gian khổ nhằm cung cấp những thông tin nóng hổi về tình hình chiến sự. Điều đó không chỉ góp phần động viên tinh thần cho các chiến sĩ ngoài mặt trận, mà còn chuyển tải niềm mong đợi của hậu phương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là chiến thắng của sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Vị tướng huyền thoại Võ Nguyên Giáp. Hòa chung trong sức mạnh ấy, có báo chí- một binh chủng đặc biệt, vũ khí đặc biệt. Những dòng tin tức, bài báo, hình ảnh, thước phim ghi lại 55 ngày đêm ác liệt trong chiến dịch là những tư liệu lịch sử quý báu, đáng trân trọng, đồng thời là công sức và có cả máu cùng nước mắt của các nhà báo- chiến sĩ.
“Ký ức Điện Biên” là dịp để chúng ta cùng nhau ôn lại một thời gian khó nhưng hào hùng và oanh liệt, thông qua những câu chuyện, ký ức của các nhà báo tham gia chiến dịch, thông qua những tư liệu, hình ảnh quý giá trong và ngoài nước... để hiểu thêm tầm quan trọng, vai trò của báo chí, cũng như công tác tuyên truyền trong chiến dịch.
Nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp: Trước khi ra trận, các chiến sĩ đều ăn mặc tươm tất, phóng viên hỏi tại sao, họ trả lời, trước quân thù ta phải đàng hoàng và chẳng may nếu hy sinh cũng được khâm liệm trong bộ quần áo đẹp. Những bữa cơm nhà bếp chuẩn bị trước để đợi chờ người lính trở về sau trận đánh, nhưng hơn nửa số suất ăn đã không được đụng tới bởi họ đã hy sinh. | Nhà báo Trần Đức Nuôi: Khi nhận được tin chiến thắng từ Điện Biên Phủ, Đài tiếng nói Việt Nam ở căn cứ Pó Lù (Bắc Kạn) đã huy động toàn bộ quân số tạo thành dây chuyền đứng sát nhau, chuyển bản tin như chuyển gạch, lên tận phòng thu, vì lo một người chuyển bị vấp ngã trên đường do va phải đá.
| Họa sĩ Ngô Mạnh Lân: Để có tranh phục vụ in báo, chúng tôi phải dùng mực chuyên dụng có mỡ để vẽ và viết ngược trên phiến đá vuông tương đối bằng phẳng, sau nhiều công đoạn mới đem đi in được. |
Ông có thể lược vài nét về binh chủng đặc biệt và vũ khí đặc biệt ấy?
Trong những năm tháng ác liệt ấy, bên cạnh các báo ở hậu phương như: Thông tấn xã Việt Nam, Cứu Quốc (Đại đoàn kết), Nhân Dân, Đài tiếng nói Việt Nam... thì ở ngoài mặt trận còn có Quân đội Nhân dân. Việc Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh và Tổng cục Chính trị cho ra đời Báo Quân đội Nhân dân trực tiếp ngay tại mặt trận là một quyết định độc đáo, sáng tạo. Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi, khoảng 5 tháng, nhưng với 33 số báo đặc biệt và 5 phóng viên nòng cốt, tờ báo đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử xuất sắc.
Vào thời điểm đó, đời sống sinh hoạt khó khăn, trang thiết bị lạc hậu, phóng viên phải tác nghiệp trực tiếp tại chiến trường trong bối cảnh chiến sự ác liệt. Yêu cầu đặt ra là phải làm thế nào để vừa có tin tức, bài báo, hình ảnh vừa ra báo nhanh nhất để phục vụ cho cán bộ, chiến ngay tại chiến trường. Tờ báo không chỉ phản ánh tình hình chiến sự mà còn là món ăn tinh thần động viên người lính và cung cấp tin tức cho hậu phương.
Qua các tư liệu, nhân chứng lịch sử tại sự kiện “Ký ức Điện Biên”, chúng ta biết được công việc làm báo trong chiến dịch Điện Biên Phủ khó khăn như thế nào, từ việc tác nghiệp của phóng viên, các biên tập viên, kỹ thuật viên, đội quân phát hành... Chỉ có các phóng viên được tác nghiệp hiện trường, còn lại các bộ phận khác đều làm việc ở dưới hầm sâu, trong không khí ngột ngạt, ánh đèn tù mù. Nhưng với nỗ lực hết mình, sau 24 giờ, tờ báo cũng đã hoàn thành. Báo còn chưa ráo mực đã được trung đội phát hành đưa ngay ra chiến trường phục vụ cán bộ chiến sĩ. Ở đó, có những độc giả ngày hôm nay đọc báo, nhưng ngày hôm sau đã hy sinh...
Các nhà báo trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã coi “ngòi bút là súng, bài báo là đạn”, vừa góp phần cổ vũ thần chiến đấu của chiến sĩ, nhưng cũng là những “viên đạn mềm” làm tan rã tư tưởng của địch. Ông đánh giá như thế nào về nhận định này?
Bên cạnh những bài báo, tranh cổ động... phản ảnh những định hướng, đường lối chỉ đạo của cấp trên, diễn biến của chiến dịch, chiến công của chiến sĩ, những sinh hoạt đời thường của người lính; trên mặt trận thông tin lúc bấy giờ còn có hàng loạt tranh địch vận do các họa sĩ làm báo vẽ, viết; được dùng như một thứ truyền đơn bắn cùng đạn pháo, tác động đến tinh thần của quân địch.
Những người làm báo ngày hôm nay có quyền tự hào về chiến công thầm lặng của thế hệ cha anh đi trước. Bởi những ký ức vừa là bài học kinh nghiệm, vừa là động lực để những nhà báo hôm nay nhìn lại và bước tới. Đó sẽ là một bản hùng ca, thể hiện ý chí, sức mạnh tổng hợp của báo chí cách mạng Việt Nam trên con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
Trân trọng cảm ơn ông!