Từ không đến có: Những ngày đầu gian khó
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, song di sản hạ tầng điện khi ấy chỉ như những đốm sáng lẻ tẻ: Công suất vài chục MW, thiết bị cũ kỹ, lưới điện manh mún.
Tháng 10/1954, khi tiếp quản Thủ đô, miền Bắc mới có 31,5 MW công suất, sản lượng khoảng 53 triệu kWh mỗi năm; số hộ gia đình được dùng điện hiếm hoi, có thể đếm trên đầu ngón tay. Ở miền Nam, năm 1954 tổng công suất đặt khoảng 53,84 MW; lưới truyền tải chỉ có hai cấp điện áp 230 kV và 66 kV, vận hành độc lập theo từng vùng. Bức tranh ấy phản chiếu một thực tế: điện năng còn là thứ xa xỉ đối với đa số người dân, và nhiệm vụ khôi phục, phát triển điện lực gắn liền với vận mệnh của đất nước non trẻ.
Trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ, ngành điện vừa sản xuất vừa chiến đấu, vừa bảo vệ cơ sở hạ tầng trước bom đạn vừa mở rộng nguồn và lưới điện để phục vụ sản xuất, đời sống và chi viện cho tiền tuyến. Những công trình điện trở thành mục tiêu oanh tạc; nhiều đường dây, trạm biến áp phải di chuyển, ngụy trang, khẩn trương khôi phục sau mỗi trận đánh. Trong 2 cuộc khánh chiến ấy, gần 150 cán bộ, kỹ sư, công nhân ngành điện đã hy sinh, để lại những cột mốc tinh thần về lòng quả cảm và trách nhiệm.
Đến cuối năm 1975, hệ thống điện miền Bắc đạt 451 MW công suất, sản lượng 1.264 triệu kWh; miền Nam đạt 812,9 MW, sản lượng khoảng 1.624 triệu kWh. Điện năng lúc ấy chủ yếu phục vụ công, nông nghiệp và các ngành kinh tế thiết yếu, tỷ trọng cho tiêu dùng dân cư còn thấp. Tuy nhỏ bé về quy mô, nhưng hệ thống điện đã góp phần giữ vững sản xuất, giữ nhịp sinh hoạt trong hoàn cảnh gian khó, là hậu phương vững chắc cho tiền tuyến.
Sau ngày đất nước thống nhất, đất nước bước vào công cuộc khôi phục hậu quả chiến tranh với vô vàn khó khăn: cơ sở hạ tầng đổ nát, nguồn lực hạn hẹp, đất nước bị cấm vận kéo dài. Hệ thống điện mất cân đối vùng miền; nhiều nơi thiếu nguồn, thủy văn thất thường; lưới truyền tải chưa phát triển đồng bộ. Cảnh cắt điện luân phiên kéo dài nhiều năm, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống. Tuy vậy, với tinh thần “điện đi trước một bước”, ngành điện mà Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) vẫn kiên trì đầu tư mở rộng. Năm 1994, đường dây 500 kV Bắc – Nam mạch 1 đưa vào vận hành, một kỳ tích, lần đầu tiên kết nối toàn bộ hệ thống điện quốc gia theo trục xương sống duy nhất. Công trình thế kỷ ấy không chỉ giải tỏa nguồn, giảm thiếu điện, mà còn khẳng định tầm nhìn chiến lược, muốn phát triển nhanh, phải có hạ tầng đi trước.
Vươn mình trong công cuộc đổi mới và hội nhập
Từ đầu thế kỷ XXI, dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, chiến lược phát triển điện lực được định hình theo hướng đa dạng hóa đầu tư, xã hội hóa nguồn lực, thu hút mạnh mẽ vốn trong và ngoài nước. Ngành điện chủ động chuyển mình từ mô hình quản lý tập trung sang từng bước vận hành theo cơ chế thị trường có điều tiết; các khâu phát điện, truyền tải, phân phối, bán lẻ dần dần được tách bạch, tạo sân chơi minh bạch để các thành phần kinh tế tham gia phát triển. Nhu cầu điện tăng nhanh song hành với công nghiệp hóa, đô thị hóa và hội nhập quốc tế, đặt ra áp lực lớn về nguồn, lưới và chất lượng dịch vụ. Đáp lại áp lực ấy, hàng loạt công trình trọng điểm được khởi công, từng bước giải quyết tình trạng thiếu điện kéo dài, tạo nền tảng để nền kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng cao.

Công trình thuỷ điện Sơn La về đêm
Trong bức tranh ấy, thủy điện và nhiệt điện đóng vai trò trụ cột. Thủy điện Sơn La công suất 2.400 MW (lớn nhất Đông Nam Á) cùng với Lai Châu, Huội Quảng, Bản Chát, Tuyên Quang… hình thành bậc thang thủy điện hùng mạnh trên các con sông lớn, vừa phát điện vừa cắt lũ, điều tiết nước. Các trung tâm nhiệt điện Phú Mỹ, Vĩnh Tân, Duyên Hải… đi vào vận hành ổn định, cung cấp nguồn điện quy mô lớn cho các vùng kinh tế trọng điểm. Bên cạnh đó là sự tham gia mạnh mẽ của khu vực tư nhân và các nhà đầu tư nước ngoài qua các dự án IPP, BOT, góp phần đa dạng hóa nguồn lực xã hội, giảm gánh nặng đầu tư công và tăng tính cạnh tranh của thị trường.
Từ sau năm 2017, năng lượng tái tạo bứt phá, đưa Việt Nam trở thành một trong những thị trường sôi động của khu vực. Điện mặt trời, điện gió phát triển nhanh, đặc biệt ở Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Sự bổ sung của nguồn tái tạo giúp đa dạng hóa cơ cấu, giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, phù hợp với cam kết giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới phát thải ròng bằng “0”. Cùng với đó là yêu cầu nâng cấp hạ tầng truyền tải để tiếp nhận, giải tỏa công suất, tối ưu vận hành; nhiều dự án 500 kV, 220 kV được đầu tư để kết nối các trung tâm nguồn mới với phụ tải.
Theo thống kê của NSMO, đến nay, tổng công suất đặt toàn hệ thống đạt khoảng hơn 86.000 MW, tăng hơn 15 lần so với năm 2000 (6.170 MW) và hơn 4 lần so với năm 2010 (20.600 MW), đứng đầu ASEAN về quy mô công suất. Con số ấy không chỉ là thước đo kỹ thuật; nó phản ánh năng lực huy động nguồn lực xã hội, phản ánh hiệu quả quản trị và, quan trọng hơn, phản ánh niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và nhà đầu tư vào chính sách ổn định, nhất quán của Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh nguồn, hạ tầng lưới truyền tải 500 kV tiếp tục được bổ sung mạch 2, mạch 3, tăng cường liên kết Bắc - Nam và giữa các vùng. Ở cấp 220 kV và 110 kV, các trạm biến áp mới ứng dụng kỹ thuật số, điều khiển xa; 100% trạm 110 kV vận hành không người trực, 82% trạm 220 kV điều khiển từ xa. Các trung tâm điều độ áp dụng dữ liệu lớn và trí tuệ nhân tạo trong dự báo phụ tải, dự báo năng lượng tái tạo, tối ưu hóa huy động nguồn, giám sát tình trạng thiết bị, những bước tiến quan trọng trên con đường hình thành lưới điện thông minh, linh hoạt và an toàn.
Điện đến mỗi nhà, niềm tin đến mọi miền
Hai thập kỷ qua, chương trình điện khí hóa nông thôn, miền núi, hải đảo được triển khai bền bỉ, quyết liệt. Đến nay, 100% số xã có điện; hơn 99,83% hộ dân được sử dụng điện, trong đó khu vực nông thôn đạt trên 99,74%. Hệ thống cáp ngầm xuyên biển đã đưa điện lưới quốc gia đến 11/12 huyện đảo; các đảo có vị trí chiến lược như Phú Quốc, Cô Tô, Lý Sơn, Kiên Hải, Lại Sơn, Côn Đảo… đều được cấp điện ổn định. Nhờ có điện, dịch vụ y tế, giáo dục cải thiện rõ rệt; nông nghiệp, thủy sản, du lịch có điều kiện bứt phá; đời sống văn hóa, tinh thần phong phú hơn. Ở những vùng sâu, vùng xa, ánh sáng điện không chỉ xua đi đêm tối mà còn rút ngắn khoảng cách phát triển, thắp lên cơ hội học tập, khởi nghiệp cho thế hệ trẻ.

Thi công đường dây 500kV mạch 3 Quảng Trạch - Phố Nối
Song song với việc mở rộng độ phủ, ngành điện cũng tái cơ cấu toàn diện, chấm dứt sự độc quyền bằng tách bạch các khâu; xây dựng thị trường điện theo lộ trình. Chuyển đổi số được đẩy mạnh ở tất cả các khâu từ quản lý tài sản, vận hành lưới, đo đếm, thanh toán đến chăm sóc khách hàng. Các dịch vụ điện trực tuyến đạt cấp độ 4, kết nối với nền tảng số quốc gia của các bộ, ngành, địa phương, tăng tính công khai, minh bạch và thuận tiện. Các chương trình quản lý nhu cầu điện, khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả được triển khai rộng rãi, tạo nên văn hóa năng lượng mới.
Quan trọng hơn cả, những thành quả ấy góp phần củng cố niềm tin xã hội. Người dân nhìn thấy sự hiện diện của Nhà nước qua mỗi đường dây vượt núi, qua từng trạm biến áp sáng đèn giữa hòn đảo xa xôi; họ cảm nhận một dịch vụ công ngày càng chuyên nghiệp, minh bạch, lấy khách hàng làm trung tâm. Doanh nghiệp nhận ra môi trường đầu tư ổn định khi điện năng được cung ứng tin cậy, kịp thời; các nhà đầu tư xem Việt Nam là điểm đến hấp dẫn. Tất cả hợp lại thành sức mạnh mềm, tạo dựng niềm tin và sự đồng thuận xã hội đối với đường lối phát triển đất nước. Bởi lẽ, “điện đi trước một bước” không chỉ là khẩu hiệu, đó là cam kết chính trị, động lực mở đường cho tăng trưởng, để không ai bị bỏ lại phía sau, để khơi dậy ý chí vươn lên và khát vọng phồn vinh.

Thắp sáng Trường Sa bằng điện mặt trời
Dĩ nhiên, chặng đường phía trước còn nhiều thách thức. Nhu cầu điện sẽ tiếp tục tăng nhanh cùng công nghiệp hóa, đô thị hóa; yêu cầu chuyển dịch năng lượng công bằng đòi hỏi cân bằng giữa an ninh cung ứng, giá thành hợp lý và mục tiêu giảm phát thải; biến đổi khí hậu với những hiện tượng thời tiết cực đoan đặt ra yêu cầu xây dựng lưới điện vững chắc hơn…Nhưng nhìn lại cả một hành trình đầy kiên cường, sáng tạo, chúng ta có cơ sở để tin tưởng, ngành điện vượt qua trở ngại, tiếp tục giữ vai trò “hạ tầng của hạ tầng” trong kỷ nguyên chuyển đổi xanh và chuyển đổi số.
Nhìn lại thành tựu 80 năm của đất nước kể từ ngày độc lập, hơn 70 năm ngày truyền thống của ngành điện cách mạng Việt Nam, chúng ta đã và đang đi đúng con đường là bảo đảm cung ứng năng lượng cho phát triển, đồng thời góp phần tạo dựng niềm tin bền vững của Nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng. Hành trình ấy tiếp tục được viết mỗi ngày bằng những dự án nguồn và lưới khởi công trên khắp mọi miền; bằng các chuẩn mực kỹ thuật an toàn, dịch vụ chất lượng ngày càng cao; bằng tinh thần đổi mới sáng tạo và khát vọng vươn lên. Và quan trọng hơn, điện sẽ thắp sáng niềm tin về một Việt Nam giàu mạnh, xanh và bền vững.
Tại thời điểm này, trên cả nước 100% số xã có điện; hơn 99,83% hộ dân được sử dụng điện. Trong đó khu vực nông thôn đạt trên 99,74%; hệ thống cáp ngầm xuyên biển đã đưa điện lưới quốc gia đến 11/12 huyện đảo; các đảo có vị trí chiến lược như Phú Quốc, Cô Tô, Lý Sơn, Kiên Hải, Lại Sơn, Côn Đảo… đều được cấp điện ổn định.