Năng lượng - chìa khóa cho khát vọng tăng trưởng cao bền vững

PGS.TS. Trần Đình Thiên nhấn mạnh, muốn đạt tăng trưởng cao, Việt Nam phải giải quyết thách thức năng lượng, từ vốn, thể chế đến công nghệ và rủi ro toàn cầu.

Năng lượng - Trụ cột cho khát vọng tăng trưởng cao

Trong bối cảnh thế giới chuyển mình mạnh mẽ với làn sóng chuyển dịch xanh và cam kết phát triển bền vững, Việt Nam đang đứng trước một bước ngoặt quan trọng về năng lượng. Với mục tiêu kép vừa duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa kiên định hướng đi Net Zero vào năm 2050 đã đặt ra những yêu cầu chưa từng có trong chính sách, đầu tư và công nghệ năng lượng.

PGS.TS. Trần Đình Thiên - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Ảnh: Phương Thảo

PGS.TS. Trần Đình Thiên - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam. Ảnh: Phương Thảo

Tại Diễn đàn “Đầu tư phát triển năng lượng hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao và bền vững” sáng ngày 21/8, PGS.TS. Trần Đình Thiên - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam chỉ rõ, năng lượng không chỉ là hạ tầng nền tảng mà còn là điều kiện tiên quyết quyết định sự thành công hay thất bại của chiến lược phát triển quốc gia.

PGS.TS. Trần Đình Thiên cho biết, trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Giai đoạn 2015-2023 chứng kiến sự “đột biến” trong phát triển năng lượng tái tạo, nhờ chính sách giá hấp dẫn và ổn định. Điện gió, điện mặt trời phát triển nhanh chóng, đóng góp quan trọng vào lưới điện quốc gia và tạo ra hình ảnh một Việt Nam năng động, tận dụng tốt lợi thế thiên nhiên.

Song, sự bùng nổ này cũng bộc lộ mặt trái. Cơ chế điều hành thiếu linh hoạt, quy hoạch chưa đồng bộ, thủ tục pháp lý chồng chéo đã dẫn đến lãng phí nguồn lực xã hội và bộc lộ những điểm nghẽn hệ thống.

PGS.TS. Trần Đình Thiên cho rằng, trong bối cảnh khát vọng trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2026-2030 cần đạt 8-10%/năm. Điều này đồng nghĩa với nhu cầu năng lượng sẽ tăng vọt, đặt ra áp lực khổng lồ về vốn, công nghệ và năng lực điều hành.

Mạng lưới thách thức: Vốn, thể chế và rủi ro toàn cầu

Theo mục tiêu, đến năm 2035 Việt Nam cần bổ sung khoảng 150.000 MW năng lượng tái tạo. Giả định với quy mô bình quân 100 MW mỗi dự án, đồng nghĩa trong vòng 10 năm tới phải triển khai khoảng 1.500 dự án mới, trong đó 600–1.100 dự án điện mặt trời và 400–640 dự án điện gió.

Đây là con số “khổng lồ” so với năng lực triển khai hiện nay. Các chuyên gia nhận định, để đạt mục tiêu, Việt Nam buộc phải có những thay đổi mang tính cách mạng về cơ chế, chính sách, cơ sở hạ tầng và phát triển nguồn nhân lực.

“Dù Chính phủ và Bộ Công Thương đã ban hành nhiều quy định, khung giá cho các loại nguồn điện nhằm tạo động lực huy động vốn, song số lượng dự án cần thực hiện vẫn quá lớn, nhất là trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Thách thức không chỉ nằm ở vốn đầu tư, mà còn ở công tác đấu thầu, lựa chọn nhà thầu, khi năng lực chuyên môn tại nhiều địa phương còn hạn chế”, PGS.TS. Trần Đình Thiên cho hay.

Dự án điện gió Thanh Phong. Ảnh: Bộ Công Thương

Dự án điện gió Thanh Phong. Ảnh: Bộ Công Thương

Theo dự phóng của TS. Cấn Văn Lực, để Việt Nam trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, GDP phải tăng trưởng 7% năm 2025; 8-10% giai đoạn 2026-2030; và 7-8% giai đoạn 2031-2045. Tốc độ này đòi hỏi mức đầu tư toàn xã hội bình quân ít nhất 38% GDP trong suốt hai thập kỷ 2026-2045.

Ước tính, mỗi năm Việt Nam cần huy động 240-245 tỷ USD, chưa kể chi phí bổ sung cho chuyển đổi xanh hay các yếu tố bất thường. Trong đó, Nhà nước chỉ có thể đảm bảo khoảng 35%, còn lại 65% phải đến từ khu vực tư nhân và các nguồn lực khác.

Riêng với ngành điện, tổng vốn đầu tư nguồn và lưới điện truyền tải giai đoạn 2005-2030 dự kiến lên tới 136,3 tỷ USD, tức trung bình 24,78 tỷ USD mỗi năm. Riêng phần nguồn điện cần khoảng 21,5 tỷ USD/năm. Con số này cho thấy áp lực khổng lồ về huy động tài chính để bảo đảm an ninh năng lượng.

Không chỉ thiếu vốn, Việt Nam còn đối mặt với nút thắt thể chế. Thống kê của Bộ Tài chính cho thấy, cả nước hiện có tới 2.212 dự án bị đình trệ vì vướng mắc thủ tục, pháp lý với tổng vốn lên tới 6 triệu tỷ đồng, liên quan gần 350 nghìn ha đất.

Riêng tại TP.Hồ Chí Minh, số dự án bị đình trệ đã lên tới 504, chiếm 7.179 ha đất, tổng giá trị ước tính khoảng 7 triệu tỷ đồng. Bên cạnh đó, các dự án nguồn điện mới, đặc biệt là các loại hình cần thời gian trên 5 năm như điện hạt nhân, thủy điện tích năng, LNG hay lưu trữ điện đều gặp vướng mắc.

Hiện nay, Việt Nam chưa có kinh nghiệm xây dựng nhà máy điện hạt nhân, trong khi quốc tế cần ít nhất 6-8 năm cho một dự án. Các dự án thủy điện tích năng chưa có chủ đầu tư chính thức. Pin lưu trữ vốn được kỳ vọng chiếm 5,5-6,9% cơ cấu nguồn vào năm 2030 vẫn chưa có quy định khung giá bán điện, khiến khả năng triển khai còn “treo”.

Riêng LNG, ngoài Nhơn Trạch 3-4 sắp vận hành và Hiệp Phước giai đoạn 1 đang xây dựng, còn tới 10 dự án trong tổng 22.540 MW vẫn loay hoay tìm chủ đầu tư. Nút thắt lớn nhất chính là hợp đồng mua bán điện (PPA).

Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu nhiều biến động với chiến tranh, xung đột và thiên tai, nhu cầu năng lượng đang gia tăng mạnh mẽ dưới tác động của các xu hướng công nghệ như trí tuệ nhân tạo, đô thị thông minh và kinh tế tri thức. Điều này kéo theo yêu cầu ngày càng khắt khe về nguồn cung năng lượng sạch, ổn định, chất lượng và an ninh trước các nguy cơ tiềm ẩn.

Cùng với những thách thức về công nghệ, việc Mỹ rút khỏi các cam kết khí hậu quốc tế hay những vấn đề trong mô hình tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc cũng tạo ra nhiều tác động đa chiều. Trong bối cảnh này, câu hỏi đặt ra là liệu những rủi ro và thách thức hiện hữu có thể trở thành cơ hội để Việt Nam thúc đẩy chiến lược phát triển năng lượng bền vững hay không.

Theo PGS.TS. Trần Đình Thiên, chính những thách thức “xứng tầm” này có thể trở thành chất xúc tác cho đổi mới. Điều kiện tiên quyết là Việt Nam phải có cách tiếp cận toàn diện, chiến lược và quyết liệt. Con đường tăng trưởng kinh tế cao và bền vững của Việt Nam gắn chặt với khả năng làm chủ năng lượng sạch, ổn định và giá hợp lý. Đó là một thách thức nhưng cũng là cơ hội để đất nước tái định vị, nâng cao sức mạnh nội tại và khẳng định vai trò tiên phong trong phát triển bền vững toàn cầu.

Chuyển dịch khỏi nhiên liệu hóa thạch không đơn thuần là nghĩa vụ với môi trường, mà là mệnh lệnh kinh tế chiến lược. Nếu quản lý hiệu quả, đây sẽ là chìa khóa bảo đảm an ninh năng lượng, duy trì quỹ đạo tăng trưởng cao và mở ra một kỷ nguyên thịnh vượng dài hạn cho quốc gia.

Phương Cúc
Bạn thấy bài viết này thế nào?
Kém Bình thường ★ ★ Hứa hẹn ★★★ Tốt ★★★★ Rất tốt ★★★★★
Bình luận

Có thể bạn quan tâm