Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 tới việc làm
Cách mạng công nghiệp 4.0 gắn liền với chuyển đổi số đã có những tác động nhất định đối với việc làm, trong đó bao gồm giảm số lượng việc làm dành cho người lao động. Trong ngành chế tạo, khi cách mạng công nghiệp vẫn còn sơ khai nhất - hệ thống hỗ trợ người lao động trong việc lắp ráp sản phẩm theo từng bước – cũng đã làm giảm 25% số việc làm. Khi phát triển đến hệ thống vật chất ảo hay còn gọi là Internet vạn vật, máy móc trong nhà máy được kết nối với nhau và có khả năng tự vận hành, có thể kiểm soát bất kỳ công đoạn sản xuất nào vào bất kỳ thời điểm nào, 35% số công việc bị mất đi. Khi trí tuệ nhân tạo phát triển, máy móc, robot có thể trao đổi với nhau và thay vì báo cáo lại cho trung tâm điều khiển bởi con người thì các hệ thống này có khả năng hoạt động độc lập.
Theo nghiên cứu mới đây của Tổng liên đoàn Lao động về "Nhận diện quan hệ lao động trong thời kỳ công nghiệp 4.0", sự phát triển của công nghiệp 4.0 đã khiến các việc làm cũ mất đi, việc làm mới được tạo ra với các công nghệ mới. Điều này dẫn đến tình trạng thời gian đào tạo tăng lên 3 – 4 lần đồng thời có tác động không đồng đều tới các ngành và khu vực tuỳ thuộc vào mức độ sử dụng công nghệ, kỹ năng lao động, đầu tư. Mặt khác, công nghiệp 4.0 cũng làm tăng sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa nhóm nước đã sẵn sàng cho công nghiệp 4.0 và những nước không phát triển và cũng làm tăng sự bất bình đẳng với nhóm lao động lớn tuổi, lao động nữ và có con nhỏ, lao động kĩ năng thấp.
Có thể nói, cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy nền kinh tế nhưng cũng đặt ra các thách thức không nhỏ tới việc phân chia lao động. Tại diễn đàn “Hợp tác xây dựng lực lượng lao động sẵn sàng cho nền kinh tế số bao trùm tại Việt Nam” diễn ra cuối tháng 10 vừa qua, ông Ngọ Duy Hiểu – Phó Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhận xét: “Đại dịch Covid-19 đã tạo ra những khó khăn chưa từng có đối với phần đông người lao động và cả cộng đồng doanh nghiệp, cộng hưởng với những thách thức vô cùng lớn từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đã đặt ra những đòi hỏi và yêu cầu chưa từng có tiền lệ, vô cùng khó khăn đối với từng người lao động trong hiện tại và trong tương lai. Chỉ có nhanh chóng thay đổi tư duy, bắt kịp về nhận thức, nâng cao năng lực bản thân, tiệm cận nhanh nhất với hơi thở của thực tiễn mới giúp người lao động vững vàng trong công việc, chủ động trong cuộc sống và “không bị bỏ lại phía sau”.
Diễn đàn “Hợp tác xây dựng lực lượng lao động sẵn sàng cho nền kinh tế số bao trùm tại Việt Nam” |
Chủ động nâng cao năng lực cho người lao động
Theo nghiên cứu gần đây về “Thực trạng tham gia của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội tại Việt Nam trong nâng cao năng lực cho người lao động phục vụ công nghiệp 4.0” do Viện phát triển doanh nghiệp thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Viện phát triển sức khoẻ cộng đồng Ánh Sáng (LIGHT) thực hiện, có một khoảng cách khá xa từ nhận thức đến hành động của doanh nghiệp trong ứng dụng công nghệ 4.0: 80% doanh nghiệp biết về các kỹ năng đặc thù, nhưng chỉ 20% ứng dụng.
Các doanh nghiệp nhìn chung còn chậm trễ trong việc chuẩn bị lực lượng lao động cho Công nghiệp 4.0: 42% chưa có chuẩn bị gì, trong khi chỉ 6% đang thực hiện kế hoạch đào tạo cho Công nghiệp 4.0. Trong khi nhóm kỹ năng mềm được đánh giá là tiếp tục giữ vài trò quan trọng trong khung năng lực 4.0, lao động kỹ thuật chuyên môn đáp ứng nhu cầu Công nghiệp 4.0 đang trong tình trạng thiếu hụt.
Về bức tranh nâng cao năng lực tại Doanh nghiệp, 80% doanh nghiệp hiện đang chủ động đào tạo, thì chủ yếu là nâng cao tay nghề (65,1%), đào tạo cho lao động chưa có kỹ năng (57,6%), ít đào tạo kỹ năng mới (46,1%) và nhất là kỹ năng chuyên biệt cho Công nghiệp 4.0 rất hạn chế (17,6%). Điều này khá logic với mức độ tham gia còn hạn chế vào chuỗi cung ứng toàn cầu và chuyển đổi số của các Doanh nghiệp Việt Nam.
Về sự tham gia của các Tổ chức xã hội, tham vấn sâu 20 tổ chức đi đầu trong lĩnh vực này, nghiên cứu cho thấy tiềm năng của các tổ chức xã hội chưa được khai thác trong việc lấp đầy khoảng trống về nâng cao năng lực cho Công nghiệp 4.0 giúp tối ưu hóa nguồn lực xã hội. Cụ thể là đối với các nhóm lao động thuộc khu vực phi chính thức, khu vực tự do và nhóm yếu thế, các tổ chức xã hội chính là chủ thể đang tiếp cận và cung cấp các nội dung và chủ đề mà các chủ thể cung cấp dịch vụ khác chưa quan tâm, như các kỹ năng đặc thù giúp người lao động tự bảo vệ các quyền của mình trong Công nghiệp 4.0. Vì chưa có các cơ chế chính sách thúc đẩy phù hợp, tiềm năng đóng góp và thế mạnh của các tổ chức xã hội chưa phát huy thỏa đáng.
Bà Nguyễn Thu Giang – Đại diện Viện LIGHT nhấn mạnh sự tham gia của các tổ chức xã hội giúp lấp đầy khoảng trống về nâng cao năng lực cho người lao động, đặc biệt là các nhóm kỹ năng nhận thức & kỹ năng xã hội, thúc đẩy và đảm bảo quyền của các nhóm yếu thế, các nhóm lao động khu vực phi chính thức, lao động nhập cư....
“Trong mỗi quốc gia, cấu trúc xã hội bao gồm 3 thành phần chính là Nhà nước pháp quyền – Kinh tế thị trường và Tổ chức xã hội. Đó là một “tam giác phát triển” mà mỗi đỉnh của nó đều có vai trò và vị trí nhất định, gắn bó biện chứng với nhau, và vì vậy giải quyết mối quan hệ giữa 3 đỉnh “tam giác phát triển” này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đến sự phát triển kinh tế xã hội” – Bà khẳng định.
Bà cũng khuyến nghị các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược và lộ trình phân bổ nguồn lực cho đào tạo lao động phù hợp với cách mạng công nghiệp 4.0; cập nhập thông tin, giúp thay đổi nhận thức về lợi ích có được từ liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo, các tổ chức xã hội đáp ứng được yêu cầu, thành lập các bộ phận chuyên trách về đào tạo. Bà cũng cho rằng các doanh nghiệp lớn cần dẫn dắt, thúc đẩy hợp tác trong đào tạo lao động giữa các bên; thử nghiệm phương thực đào tạo mới, ứng dụng công nghệ như dạy học trực tuyến, dạy học qua các nền tảng đa phương tiện,...
Đối với các tổ chức xã hội, bà cho rằng cần ưu tiên đào tạo các kỹ năng mềm, tập trung vào nhóm đối tượng người lao động yếu thế, tăng cương khả năng liên kết, hợp tác, phối hợp với các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, cơ sở đào tạo.