Theo đó, 10 nền kinh tế lớn của châu Á sẽ có tổng GDP thực tế lên tới 28 nghìn tỷ USD và vượt qua GDP ước tính của Mỹ là 22,33 nghìn tỷ USD vào năm 2030.
Tuy nhiên, báo cáo của DBS cho rằng, đây không phải là điều kiện cần cũng không phải điều kiện đủ để đầu tư vào châu Á, vì đầu tư không thể chỉ dựa vào một chỉ số duy nhất, đặc biệt khi nói đến đầu tư dài hạn. Tuy châu Á có một tương lai kinh tế tươi sáng, song tất cả các nền kinh tế trong châu lục này phải đối mặt với một số vấn đề chung. Báo cáo cũng nêu rõ các vấn đề như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng giới, môi trường suy thoái đối với thương mại và gián đoạn công nghệ có thể kéo tụt các con số tăng trưởng.
Hơn nữa, báo cáo lưu ý “một số động lực đã hỗ trợ sự phát triển của các nền kinh tế châu Á trong những thập kỷ gần đây đang suy yếu và có nhiều thay đổi trong môi trường quốc tế”. Khoảng cách nhân khẩu học mà nhiều nước châu Á đã được hưởng lợi từ trước đến nay thì có thể sẽ không còn giá trị nữa. Dân số trẻ đang tạo ra một thách thức về việc làm, trong trường hợp không có việc làm thì sẽ có tỷ lệ thất nghiệp rất cao, tạo ra cả thách thức về kinh tế và chính trị xã hội.
Báo cáo của DBS nhận định: “Các nước như Ấn Độ và Philippines sẽ cần phải làm việc chăm chỉ để tạo việc làm cho lực lượng dân số trẻ, trong khi các nước già như Singapore, Nhật Bản và Trung Quốc có thể bù đắp sự thiếu hụt nhân khẩu học thông qua sử dụng tích cực công nghệ mới”. Nghiên cứu này cũng cảnh báo rằng sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ ở các nền kinh tế toàn cầu sẽ đóng vai trò như một mối đe dọa cho các luồng đầu tư vào khu vực châu Á. Nguy cơ thực sự về bảo hộ thương mại đang nổi lên, có thể sẽ làm giảm luồng thương mại và đầu tư trong khu vực mà châu Á sẽ là một trong những khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất trên thế giới, xung đột thương mại cũng có tác động kinh tế nhất định đối với triển vọng của khu vực này.