Đây là Hội nghị lần thứ 3 liên tiếp trong 3 năm qua về lĩnh vực sản xuất chế biến và xuất khẩu lâm sản. Hội nghị này nhằm đánh giá kết quả chế biến, xuất khẩu lâm sản năm 2020 trước những khó khăn, thách thức; nhất là sự tác động của dịch Covid-19; đồng thời đề ra các giải pháp thúc đẩy ngành lâm nghiệp nói chung và lĩnh vực sản xuất, chế biến, xuất khẩu lâm sản năm 2021 và giai đoạn 2021-2025 phát triển bền vững, hiệu quả.
Hội nghị tập trung vào các giải pháp, kế hoạch để đưa ngành gỗ Việt Nam vươn xa |
Năm 2020, kim ngạch xuất khẩu lâm sản ước đạt trên 12,6 tỷ USD, tăng 11,5% so với năm 2019, tiếp tục đứng trong 10 nhóm sản phẩm xuất khẩu chủ lực, chiếm trên 30% tổng giá trị xuất khẩu của ngành nông nghiệp; giá trị xuất khẩu lâm sản nước ta tiếp tục đứng đầu khối ASEAN, thứ hai châu Á và thứ 5 thế giới; giá trị lâm sản xuất siêu đạt trên 10 tỷ USD - cao nhất từ trước đến nay. Sản phẩm gỗ và lâm sản Việt Nam tiếp tục có mặt, giữ vững uy tín và mở rộng đến 140 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Để đạt được những kết quả này, trong những năm qua và trong năm 2020, toàn ngành đã đoàn kết, nỗ lực đổi mới, sáng tạo trên mọi phương diện, thể hiện tập trung ở nhiều lĩnh vực.
Cụ thể, thực hiện hiệu quả các chính sách và kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất, chế biến xuất khẩu gỗ và lâm sản. Thời gian qua, các chính sách hỗ trợ cho ngành chế biến gỗ, lâm sản được thực hiện lồng ghép tại các chính sách phát triển lâm nghiệp và cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn…
Nhận định về cơ hội của ngành sản xuất, chế biến và xuất khẩu lâm sản trong giai đoạn mới, Thứ trưởng Thường trực Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cho biết: Thị trường thương mại đồ nội thất của thế giới là rất lớn, khoảng 450 tỷ USD giá trị thương mại/năm; trong đó khoảng 150 tỷ USD giá trị thương mại của đồ nội thất bằng gỗ.
Ra mắt Quỹ Việt Nam xanh |
Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam mới chiếm khoảng trên 6% thị phần toàn cầu nên các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng, phát triển thị phần. Bên cạnh các thị trường truyền thống có giá trị xuất khẩu cao như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Hàn Quốc thì một số thị trường tiềm năng có cơ hội mở rộng phát triển mới như Canada, Nga, Ấn Độ, UEA… Việt Nam cũng có nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như: viên nén, dăm gỗ, gỗ dán, gỗ ghép, đồ mộc xây dựng, ghế ngồi, các đồ nội thất và bộ phận đồ nội thất…
Đặc biệt, với nhóm đồ nội thất có giá trị xuất khẩu lớn nhất trong các nhóm hàng xuất khẩu gỗ và lâm sản sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định trong thời gian tới. Cùng với đó, các hiệp định đối tác tự nguyện giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu về thực thi Luật Lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT), EVFTA và các hiệp định thương mại khác đang là cơ hội cho ngành chế biến, gỗ, lâm sản xuất khẩu.
Trong giai đoạn 2021-2025, định hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn trong sản xuất nông nghiệp, đóng góp quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; phấn đấu để Việt Nam trở thành một trong những nước hàng đầu trên thế giới về sản xuất, chế biến, xuất khẩu lâm sản có thương hiệu uy tín trên thị trường thế giới và khu vực, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước và gia tăng xuất khẩu.
Tiếp tục phát triển rừng trồng nguyên liệu theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng rừng, gỗ có chứng chỉ quản lý rừng bền vững; đảm bảo cung cấp tối thiểu 80% nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản; duy trì ổn định nguồn cung cấp nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu gỗ từ khai thác cây trồng phân tán, cây vườn nhà, vườn rừng và vườn cây cao su thanh lý với sản lượng gỗ từ 7-10 triệu m3/năm; về giá trị kim ngạch xuất khẩu, nâng kim ngạch xuất khẩu gỗ và lâm sản năm 2021 đạt 14-14,5 tỷ USD, tăng từ 10-11% so với năm 2020, và đạt 18-20 tỷ USD vào năm 2025); chủ động nguồn nguyên liệu gỗ và vật liệu phụ trợ trong nước, bảo đảm 100% gỗ, sản phẩm gỗ xuất khẩu có nguồn gốc hợp pháp; tăng dần tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm gỗ có giá trị gia tăng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm dần tỷ trọng xuất khẩu sản phẩm thô, sản phẩm trung gian.
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng thăm gian trưng bày bên lề hội nghị Giải pháp thúc đẩy sản xuất, chế biến và xuất khẩu lâm sản |
Trong 10 tháng đầu năm 2020 đã thành lập mới 1.730 doanh nghiệp. Cùng với đó, hầu hết đơn vị đã thay đổi về dây chuyền công nghệ, từ sử dụng nguyên liệu rừng trồng nhập khẩu và gỗ rừng tự nhiên chế biến sản phẩm sang nguyên liệu trong nước, nhất là về sản xuất ván nhân tạo (ván ghép thanh, ván sợi, ván dán, ván dăm)…
Đặc biệt hơn, trong bối cảnh khó khăn, thách thức bủa vây, các doanh nghiệp, doanh nhân, chủ rừng và nhà quản lý trong toàn ngành đã sáng tạo và đổi mới phương thức, hình thức tiếp thị, bán hàng để duy trì và mở rộng thị trường, trong đó Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Hàn Quốc tiếp tục là những thị trường quan trọng của ngành gỗ, lâm sản Việt Nam.
Ước giá trị xuất khẩu vào 5 thị trường này đạt trên 11 tỷ USD, chiếm khoảng 90% tổng kim ngạch xuất khẩu, riêng Hoa Kỳ đạt trên 6,0 tỷ USD, tăng trên 30% so với cùng kỳ 2019. Sau khi các hiệp định VPA/FLEGT, EVFTA giữa Việt Nam-EU, TPP, RCEP… có hiệu lực càng nâng cao vị thế, tiềm năng và mở ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp.
Nằm trong chuỗi hoạt động nhân kỷ niệm 75 năm hình thành và phát triển ngành lâm nghiệp Việt Nam, Bộ NN&PTNT phối hợp với UBND tỉnh Nghệ An; Hiệp hội gỗ và Lâm sản Việt Nam tổ chức trưng bày, triển lãm với chủ đề “Kết nối thành tựu 75 năm ngành lâm nghiệp Việt Nam” tại TP. Vinh và ra mắt Quỹ Việt Nam xanh.
Nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung bộ, Nghệ An là tỉnh có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn nhất cả nước. Toàn tỉnh hiện có trên 965.000ha đất có rừng, trong đó, diện tích rừng trồng hơn 180.000ha, độ che phủ rừng đạt 58,5%; trữ lượng gỗ trên 91 triệu m3, trong đó, trên 9,6 triệu m3 gỗ rừng trồng; trên 1,94 tỷ cây tre, mét; có điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu để phát triển nhiều loại cây dược liệu quý như: sâm Puxailaileng, trà hoa vàng và các loại cây nguyên liệu làm hàng thủ công, mỹ nghệ, như song, mây...; sản lượng gỗ khai thác bình quân hàng năm thời gian gần đây đạt từ 1,2 - 1,4 triệu m3, sản lượng có khả năng khai thác bình quân hàng năm khoảng trên 2,5 triệu m3. |