- Mẹ không sao. Anh... À ông đứng cạnh thày con là ai thế?
- Là bạn của thày con, Việt kiều Nhật. Bác ấy hiền khô, là thương binh thời chống Mỹ, mẹ quen bác ấy à?
- Không, mẹ hỏi để biết thế thôi. Chắc giống một người bạn trước đây của mẹ.
- Con quen bác ấy qua thày con hồi bên Nhật. Bác ấy rất nhiệt tình chỉ bảo về phương pháp luận và kết cấu luận án, rất khoa học. Tháng sau, bác ấy và thày con sẽ sang Việt Nam...
Bà Vân lên gác đọc sách, lật đi lật lại từng trang mà không tìm được gì cần đọc. Bà khẽ đẩy cửa sổ và nhìn ra... vô định. Từng sợi rét quất ngọt...
***
Ngày khai giảng năm học 1968- 1969 của Trường Chu Văn An. Trời đổ mưa như trút. Mưa ngớt, tan lễ, Vân định cùng lũ bạn ra đường Thanh Niên lội nước nhưng chợt nhớ trưa phải nấu cơm nên Vân về nhà.
Nước ngập ngang ống chân, Vân cởi dép, mò mẫm, định đi lên hè thì một chiếc ôtô phóng qua, nước bắn tung tóe. Giật mình, Vân ngã nhào về phía trước, một chiếc dép tuột khỏi tay, hút vào lỗ cống đen ngòm...
Hai ngày trước, Vân chỉ còn đôi dép lê cũ vá quai, mà hôm nay, cô phải cầm cờ dẫn đầu khối diễu hành... Mẹ cô lấy trong tủ ra một mảnh vải sa tanh rồi ra cửa. Chiều, như trong truyện cổ tích, đôi dép quai hậu nâu sẫm, thơm mùi nhựa nằm ngay ngắn đầu giường, phía dưới có một mảnh giấy nhỏ “Chúc con gái học giỏi, chăm ngoan”... Vân hiểu mẹ cô đã đi đâu...
- Sao thế em - Tiếng gọi đưa Vân trở về thực tại. Một anh bộ đội rất trẻ đứng trước mặt với nụ cười thân thiện.
- “Em lỡ tay để mất mộtchiếc dép xuống cống kia rồi” - Vân thiểu não. Anh bộ đội an ủi:
- Em về đi, Nếu tìm được lát anh mang qua cho, mà em tên là gì? Nhà ở đâu?
- Em là Vân. Nhà em đầu ngã tư kia. Dưới cửa sổ tầng 2 có cái khẩu hiệu “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!” đấy.
Bữa trưa, mấy lần định thú nhận nhưng không sao nói được, cô sợ mẹ buồn. Ăn xong, định bụng vào học thì Vân nghe tiếng gõ cửa. Mở cửa, cô bàng hoàng nhận ra anh bộ đội lúc nãy, ướt lượt sượt. Anh giúi vào tay Vân một cái túi giấy xi măng nhão nhoẹt:
- Anh đã tìm được dép cho em. Hỏi bác công nhân cấp thoát nước đầu phố, anh đã “tóm” được “cu cậu” ở cửa cống chảy ra hồ Trúc Bạch...
Vân rạo rực, có lẽ không phải chỉ vui vì chiếc dép hiện hữu trên tay mà là sự cảm phục, xen lẫn sự biết ơn.
- Em cảm ơn anh ạ. Anh vào nhà chơi đã, mà anh tên là gì?- Vân lí nhí.
- Anh phải về đơn vị. Hôm khác anh qua. Anh là Trừng- anh bộ đội vừa nói vừa ra cổng.
Thế rồi, cứ mỗi buổi chiều thứ bảy, đôi bạn trẻ lại sóng bước trên đường Thanh Niên khi Vân tan học. Ba tháng sau, Trừng đến tạm biệt cô để vào Nam. Trừng tặng Vân một bức tranh tự vẽ, cô nhận ra ngay góc phố thân quen, dưới cửa sổ tầng 2 còn có cái khẩu hiệu...
***
Thư qua, lại từ chiến trường, hậu phương, có cả hoa và cả máu. Họ quyết định chờ nhau. Giữa năm 1971, Vân được đi học ở nước ngoài. Thư gửi Trừng, cô viết “...Em được chọn đi học xây dựng ở Cu Ba, không biết khi nào mới lại được gặp anh?...”. Gần tháng sau, Trừng thư lại: “...Em cứ đi đi. Anh cầm súng, em cầm bút nhưng sau này thống nhất, anh cũng sẽ trở thành kỹ sư xây dựng...”.
Đó là tất cả những gì đẹp nhất mà đôi trẻ có được. Sáng sớm hôm sau, ở ven thành cổ Quảng Trị, Trừng bị trúng bom. Thấy ran rát ở bàn tay phải, anh giơ lên nền trời thì thấy còn có 2 ngón đầy máu. Mười ngày sau, Trừng tỉnh dậy khi người bị băng trắng toát, ngoài mấy ngón tay, xương đòn vai phải bị mảnh bom giã nát. Nỗi đau thể xác không thể sánh được với nỗi buồn chán, tự ti khi nhìn lại bộ dạng của mình. Liệu thế nào khi Vân gặp lại mình đây? Câu hỏi ấy lặp đi, lặp lại cả nghìn lần, xoáy sâu vào nỗi thất vọng càng ngày càng lớn của anh...
Hơn 6 tháng điều trị, Trừng được ra Bắc. Trừng dặn lại quân Y Viện không tiết lộ địa chỉ mới của anh. Sau đó, bằng ý chí và nghị lực, Trừng đã được nhận học tại Đại học Xây dựng. Năm 1978, anh sang Liên Xô học cao học và chuyển tiếp nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Nhật và được giữ lại giảng dạy... Trừng không lập gia đình, niềm vui duy nhất của anh là những công trình khoa học...
Thư gửi nhiều lần không hồi đáp, Vân buồn nhưng vẫn hy vọng. Rồi trận chiến 81 ngày đêm ở thành cổ Quảng Trị năm 1972 mà cô được nghe qua đài phát thanh làm cô sụp đổ hoàn toàn. Có lẽ anh đã nằm lại chiến trường cùng bao đồng đội... Lúc đó, cô mới ân hận là không hỏi rõ quê quán anh ở đâu?...
Cũng năm 1978, với tấm bằng đỏ chuyên ngành nền móng, Vân trở về nước làm việc cho Viện Địa kỹ thuật. Sau đó vài năm, cô lập gia đình với Hùng- một đồng nghiệp. Năm 1986, họ có một con gái- Lan Anh. Năm 1989, Đông Âu tan rã, Hùng xin đi quản lý công nhân ở Đức rồi có cuộc sống riêng. Từ đó, Vân ở vậy, nuôi con.
***
Sân bay Nội Bài chiều cuối năm. Hai mẹ con bà Vân có mặt từ rất sớm. Lan Anh chốc chốc lại nhìn mẹ rồi tủm tỉm.
- Thày con kia rồi, cả bác Trừng nữa- Lan Anh reo lên. Chưa kịp định thần thì ông Trừng đã ở ngay trước mặt, đột ngột như hôm xuất hiện ở khung cửa nhà bà Vân năm nào. Ông nói một hồi không dứt như thể sợ bà ngắt lời:
- Anh biết hết rồi. Lần đầu gặp Lan Anh, anh ngờ ngợ vì cháu rất giống em. Tuần trước, anh và Lan Anh đã kể cho nhau mọi chuyện, cháu rất vui. Lần này anh về quê thắp hương cho các cụ rồi lại...
Tim nghẹn lại, hai tai ù đặc, nước mắt chực trào ra, bà Vân hoài nghi:
- Tại sao hồi đó anh?... Mà anh bảo về quê lên lại đi đâu?
- Anh chưa rõ, đang định hỏi mẹ con em đây? - ông Trừng cười nhìn Lan Anh.
- Thế thì anh ăn tết cùng mẹ con em nhé? - bà Vân dè dặt.
- Cảm ơn em, anh cũng mong như thế...
- Tết này nhà mình vui quá rồi mẹ nhỉ?- Lan Anh reo lên, rồi cô ghé sát tai bà Vân nói nhỏ: “Con đã từng nói, mẹ chuyên về nền móng, con là kiến trúc sư và ước nhà mình có thêm một kỹ sư xây dựng để khép kín một công trình. Bây giờ ước mơ đã thành hiện thực rồi phải không mẹ?”.
Xe lao nhanh qua cầu Nhật Tân. Gió sông Hồng hun hút thổi. Hà Nội bừng sáng cả một góc trời...
Hà Nội, tháng 1/2016