Luật Quản lý thuế (sửa đổi): Chuyển từ tư duy "quản lý" sang "phục vụ"
Cần thiết sửa đổi Luật Quản lý thuế
Theo Bộ Tài chính, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 13/6/2019 (thay thế cho Luật năm 2006 và các luật sửa đổi, bổ sung). Luật gồm 17 chương, 152 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2020.

Hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp Dự thảo Luật Quản lý thuế diễn ra vào chiều ngày 16/9. Ảnh: NH.
Phát biểu tại hội thảo lấy ý kiến doanh nghiệp về dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi) do Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức vào chiều ngày 16/9, tại Hà Nội, ông Đặng Ngọc Minh - Phó Cục trưởng Cục Thuế (Bộ Tài chính) cho rằng, sau hơn 5 năm thực hiện, Luật Quản lý thuế 2019 là cơ sở pháp lý quan trọng, có phạm vi tác động trên cả nước đối với toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các tổ chức, cá nhân.
Đánh giá những tác động tích cực của Luật Quản lý thuế 2019, ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký VCCI cho biết, Luật Quản lý thuế năm 2019 đã tạo ra những bước tiến quan trọng trong việc hiện đại hóa quản lý thuế, mở rộng cơ sở thu, nâng cao hiệu quả thu ngân sách.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, theo Bộ Tài chính, Luật Quản lý thuế 2019 đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Thực tiễn thi hành pháp luật về quản lý thuế cho thấy một số quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành chưa phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội và quy định của luật chuyên ngành. Ngoài ra, Luật Quản lý thuế hiện hành cũng chưa đồng bộ với các pháp luật liên quan.
Kể từ khi Luật Quản lý thuế được ban hành năm 2019, Quốc hội đã ban hành một số luật, nghị quyết liên quan trong giai đoạn từ năm 2021 đến nay và có nhiều tác động đến công tác quản lý thuế, ảnh hưởng đến sự chưa đồng bộ pháp luật tại một số quy định của Luật Quản lý thuế.
Đặc biệt, xu hướng cải cách thuế trên thế giới hiện nay tập trung vào việc hiện đại hóa toàn diện hệ thống quản lý thuế thông qua chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ tiên tiến.
Trong khi đó, chủ trương xóa bỏ việc khoán thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị đang đòi hỏi phải thay đổi cơ chế quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo hướng tất cả các hộ kinh doanh sẽ phải thực hiện chế độ tự khai, tự nộp thuế và thực hiện sổ sách hóa đơn, chứng từ tại Luật Quản lý thuế… Từ những hạn chế trên, Bộ Tài chính cho rằng, việc ban hành Luật Quản lý thuế (sửa đổi) là rất cần thiết.
Đồng tình với Bộ Tài chính, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, trong bối cảnh nền kinh tế số phát triển nhanh, giao dịch xuyên biên giới gia tăng, các mô hình kinh doanh mới, tài sản số, trí tuệ nhân tạo, thương mại điện tử ngày càng phổ biến, những thách thức mới đang đặt ra yêu cầu cập nhật và hoàn thiện mạnh mẽ hơn nữa thể chế quản lý thuế.
Theo Phó Cục trưởng Cục Thuế (Bộ Tài chính) Đặng Ngọc Minh, trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc hoàn thiện thể chế, đặc biệt là thể chế quản lý thuế, trở thành một trong những nhiệm vụ cấp bách và có ý nghĩa then chốt.
“Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội với những biến đổi nhanh chóng, đặc biệt là sự bùng nổ của nền kinh tế số với những loại hình kinh doanh mới, xu thế số hóa giao dịch, yêu cầu chuyển đổi số quốc gia, yêu cầu cải cách cắt giảm thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ cho người nộp thuế đã đặt ra yêu cầu tất yếu phải sửa đổi Luật Quản lý thuế một cách toàn diện” - ông Minh nói.

Luật Quản lý thuế (sửa đổi) lấy người nộp thuế làm trung tâm. Ảnh minh hoạ.
Chuyển từ tư duy “quản lý” sang "phục vụ"
Phó Cục trưởng Cục Thuế thông tin, hiện, hồ sơ dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi) của Bộ Tài chính đã được Bộ Tư pháp có ý kiến thẩm định và đã trình Chính phủ. Theo đó, định hướng xây dựng luật chỉ quy định những nội dung mang tính nguyên tắc đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền của Quốc hội, tạo khung căn cứ pháp lý để giao Chính phủ, Bộ Tài chính hướng dẫn những nội dung thuộc thẩm quyền và phạm vi chức năng, nhiệm vụ được phân công.
Theo đại diện Cục Thuế, thực hiện các chủ trương của Bộ Chính trị tại 4 Nghị quyết trụ cột (Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 59-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW, Nghị quyết số 68-NQ/TW), định hướng sửa đổi Luật Quản lý thuế lần này tập trung vào chuyển đổi số, hiện đại hóa và ứng dụng công nghệ trong quản lý thuế, chuyển đổi mô hình quản lý thuế theo chức năng sang mô hình quản lý theo đối tượng kết hợp chức năng nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu năng, hiệu lực.
Tăng cường quản lý đối với các mô hình kinh tế mới; cải cách triệt để công tác quản lý thuế, chuyển từ tư duy “quản lý” sang “phục vụ”, lấy người nộp thuế làm trung tâm phục vụ. Đồng thời, thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện trên cơ sở phân loại mức độ tuân thủ pháp luật và mức độ rủi ro của người nộp thuế; đẩy mạnh cắt giảm thủ tục hành chính; tăng cường quản lý chống thất thu thuế.
Ông Đậu Anh Tuấn nhận định, Luật Quản lý thuế là một đạo luật mang tính nền tảng trong hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam. Nếu các luật thuế chuyên ngành xác lập mức thuế, đối tượng chịu thuế thì Luật Quản lý thuế là "luật thủ tục", điều chỉnh toàn bộ quy trình thực hiện nghĩa vụ thuế, từ đăng ký, kê khai, nộp thuế, đến hoàn thuế, miễn giảm, cưỡng chế, kiểm tra, khiếu nại… đây là luật ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí, thời gian tuân thủ và mức độ thuận tiện trong thực hiện nghĩa vụ thuế của doanh nghiệp và người dân.
Đại diện VCCI cũng nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật Quản lý thuế có những những định hướng rất quan trọng: Chuyển đổi mô hình quản lý từ "quản lý" sang "phục vụ", lấy người nộp thuế làm trung tâm. Cùng với đó, thể chế hóa các nguyên tắc quản lý thuế hiện đại dựa trên rủi ro, quản lý tuân thủ, bản chất kinh tế quyết định nghĩa vụ thuế, quản lý số hóa, ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn và AI.
Dự thảo Luật Quản lý thuế cũng tăng cường phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa thủ tục hành chính, cắt giảm chi phí tuân thủ, thúc đẩy tuân thủ tự nguyện. Đồng thời, thiết lập nền tảng pháp lý cho quản lý thuế điện tử, thuế số, đáp ứng yêu cầu hội nhập và các chuẩn mực quốc tế.
Về những nội dung tại dự thảo Luật, ông Đậu Anh Tuấn cũng đồng tình việc quy định phân loại người nộp thuế theo rủi ro và mức độ tuân thủ (Điều 3, Điều 5, Điều 34) và cho rằng, đây là bước đi cần thiết để hướng tới quản lý thông minh, tối ưu hóa nguồn lực công, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tuân thủ tốt. Tuy nhiên, cộng đồng doanh nghiệp cũng mong Bộ Tài chính sớm công khai các tiêu chí phân loại, quy trình đánh giá rủi ro và mức độ tuân thủ, đảm bảo tính minh bạch, khách quan, tránh gây tâm lý e ngại cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc xóa bỏ hình thức thuế khoán với hộ kinh doanh từ năm 2026 (Điều 13) là một yêu cầu quan trọng của Nghị quyết 68, cần thiết để đảm bảo công bằng và chống thất thu. Đặc biệt, cần có lộ trình hỗ trợ hộ kinh doanh chuyển đổi sang mô hình doanh nghiệp; đơn giản hóa chế độ kế toán, khai thuế phù hợp với năng lực thực tế của họ. Tránh tình trạng "ép" chuyển đổi nhưng hộ kinh doanh không kịp thích nghi, dẫn tới tăng gánh nặng, thậm chí rút lui khỏi thị trường.
Ông Đậu Anh Tuấn - Phó Tổng thư ký VCCI cho hay, Luật Quản lý thuế là một đạo luật tác động sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế. Việc xây dựng luật không chỉ là câu chuyện của cơ quan thuế, mà là vấn đề của cả nền kinh tế. Do đó, các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, các chuyên gia cần đóng góp ý kiến một cách thực chất, thẳng thắn và xây dựng dự thảo. Đó là cách để đảm bảo khi luật được ban hành, sẽ thực sự “thấm” vào cuộc sống, dễ hiểu, dễ thực hiện, tạo động lực mới cho phát triển.