Longform
25/05/2023 06:00
Longform | Bài 3: Giải "bài toán" xuất nhập khẩu bền vững

25/05/2023 06:00

Xuất nhập khẩu đã, đang và sẽ là một trong những trụ cột của nền kinh tế và đang được hướng tới mục tiêu bền vững.
Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Xuất nhập khẩu đã, đang và sẽ là một trong những trụ cột của nền kinh tế và đang được hướng tới mục tiêu bền vững.

-----

KIÊN ĐỊNH MỤC TIÊU XUẤT NHẬP KHẨU BỀN VỮNG

Phải khẳng định, xuất nhập khẩu đã, đang và sẽ là một trong những trụ cột quan trọng của nền kinh tế đất nước. Điều này đã được chỉ rõ khi Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc”. Trong bối cảnh mới của tình hình thế giới và trong nước, việc tích cực, chủ động triển khai chủ trương hội nhập quốc tế theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng sẽ góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Nghị quyết Đại hội XIII nêu, trước bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động khó đoán định, cạnh tranh nước lớn ngày càng gay gắt, xu hướng hình thành cục diện đa cực, đa trung tâm, đa tầng nấc ngày càng rõ hơn, tác động sâu rộng và toàn diện đến cục diện thế giới, khu vực, quan hệ quốc tế và sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới, bên cạnh việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, yếu tố “linh hoạt” và “hiệu quả” cần được tính đến.

Thứ nhất, yếu tố “linh hoạt” thể hiện sự nhạy bén, phản ứng mau lẹ, uyển chuyển với những thay đổi của tình hình thế giới và khu vực, bảo đảm khả năng làm chủ cũng như quản lý được tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của Việt Nam.

Thứ hai, yếu tố “hiệu quả” bao gồm việc đạt được các thành tựu, kết quả tích cực từ quá trình hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng đi kèm với việc bảo vệ/bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc một cách cao nhất. Việc bổ sung hai yếu tố “linh hoạt” và “hiệu quả” vào chủ trương hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện của Đảng ta sẽ đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi khách quan của thực tiễn, đồng thời thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về vấn đề hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Như vậy, hội nhập quốc tế, trong đó có hội nhập quốc tế về kinh tế vẫn là một trong những chủ trương lớn của Đảng ta. Nghị quyết Đại hội XIII cũng nêu rõ, để đạt được mục tiêu trên, cần triển khai các giải pháp về hội nhập kinh tế như sau:

Khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do, mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, không để phụ thuộc quá lớn vào một thị trường. Tích cực đàm phán các hiệp định thương mại song phương và đa phương. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các đại diện thương mại, xúc tiến thương mại của Việt Nam tại các quốc gia. Tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại phù hợp với điều kiện của đất nước và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu các biện pháp phòng vệ thích hợp, xây dựng hàng rào kỹ thuật để bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng không trái với các cam kết quốc tế.

Nghiên cứu phương án để giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ các cuộc xung đột thương mại đến xuất khẩu. Đa dạng hoá đối tác nhập khẩu, tránh tình trạng phụ thuộc vào một đối tác. Ưu tiên nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư đầu vào được tạo ra từ công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, hàng hoá trong nước chưa sản xuất được; kiểm soát hiệu quả việc nhập khẩu hàng hoá không thiết yếu, trong nước sản xuất được.

Tăng cường quản lý biên mậu, gia tăng xuất, nhập khẩu chính ngạch, theo hợp đồng; tăng cường kiểm tra, kiểm soát, chống gian lận thương mại, nhãn hiệu hàng hoá, xuất xứ hàng hoá. Đổi mới, nâng cao hiệu quả cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương và hiệp hội doanh nghiệp trong việc xử lý các vấn đề phát sinh trong thương mại quốc tế…

Để đạt được mục tiêu trên, thời gian qua, Bộ Công Thương đã tham mưu Chính phủ ban hành hàng loạt văn bản nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho hoạt động xuất nhập khẩu. Gần đây nhất, Bộ đã xây dựng và tham mưu trình Chính phủ ban hành Quyết định số 493/QĐ-TTg ngày 19/4/2022 phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa đến năm 2030.

Việc thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa được thực hiện trên ba quan điểm cơ bản xuyên suốt:

Thứ nhất, phát triển xuất nhập khẩu bền vững trên cơ sở hài hòa về cơ cấu hàng hóa, cơ cấu thị trường và cán cân thương mại với từng thị trường, khu vực thị trường; hài hòa giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn; hài hòa cơ hội tham gia và hưởng thụ thành quả tăng trưởng xuất nhập khẩu; gắn với thương mại xanh và thương mại công bằng, với bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ hai, phát triển xuất nhập khẩu hàng hóa gắn với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, khoa học - công nghệ, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, phát triển nền sản xuất xanh sạch, bền vững, tuần hoàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nâng cao hàm lượng đổi mới sáng tạo trong sản phẩm xuất khẩu; xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hoá Việt Nam xuất khẩu.

Thứ ba, phát triển xuất nhập khẩu gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh, khai thác hiệu quả cơ hội và hạn chế tác động của các thách thức trong thực thi cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Chiến lược đặt ra các mục tiêu cụ thể đến năm 2030 như sau:

Một là, xuất khẩu, nhập khẩu tăng trưởng ổn định, cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 6 - 7%/năm trong thời kỳ 2021 - 2030, trong đó giai đoạn 2021 - 2025 tăng trưởng xuất khẩu bình quân 8 - 9%/năm; giai đoạn 2026 - 2030 tăng trưởng bình quân 5 - 6%/năm; tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa bình quân 5 - 6%/năm trong thời kỳ 2021 - 2030, trong đó giai đoạn 2021 - 2025 tăng trưởng nhập khẩu bình quân 7 - 8%/năm; giai đoạn 2026 - 2030 tăng trưởng bình quân 4 - 5%/năm. Cân bằng cán cân thương mại trong giai đoạn 2021 - 2025, tiến tới duy trì thặng dư thương mại bền vững giai đoạn 2026 - 2030; hướng đến cán cân thương mại lành mạnh, hợp lý với các đối tác thương mại chủ chốt.

Hai là, xuất nhập khẩu phát triển bền vững với cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường cân đối, hài hoà. Tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến, chế tạo xuất khẩu lên 88% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2025 và 90% vào năm 2030; trong đó, tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ trung bình và cao đạt khoảng 65% vào năm 2025 và 70% vào năm 2030. Tăng tỷ trọng thị trường xuất khẩu khu vực châu Âu lên 16-17% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2025 và 18 - 19% vào năm 2030; khu vực châu Mỹ lên 32 - 33% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2025 và 33 - 34% vào năm 2030; tỷ trọng thị trường xuất khẩu khu vực châu Á vào khoảng 49 - 50% vào năm 2025 và 46 - 47% vào năm 2030. Tăng tỷ trọng thị trường nhập khẩu từ khu vực châu Âu lên 8 - 9% tổng kim ngạch nhập khẩu vào năm 2025 và 10 - 11% vào năm 2030; khu vực châu Mỹ lên 8 - 9% tổng kim ngạch nhập khẩu vào năm 2025 và 10 - 11% vào năm 2030; giảm tỷ trọng thị trường nhập khẩu từ khu vực châu Á xuống khoảng 78% tổng kim ngạch nhập khẩu vào năm 2025 và 75% vào năm 2030.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương cũng tham mưu Chính phủ ban hành Quyết định 165/QĐ-TTg ngày 28/2/2023 phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành Công Thương giai đoạn đến năm 2030. Trong đó, mục tiêu của Đề án là duy trì thặng dư cán cân thương mại với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu luôn cao hơn nhập khẩu và tăng bình quân khoảng 6 - 8%/năm.

Về tái cơ cấu lĩnh vực xuất nhập khẩu, tập trung ưu tiên phát triển xuất khẩu các mặt hàng có quy mô xuất khẩu lớn, lợi thế cạnh tranh cao (điện tử, dệt may, da giày, nông sản, đồ gỗ...) gắn với đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa có hàm lượng chế biến sâu, công nghệ cao, có giá trị gia tăng cao, tỷ lệ nội địa hoá lớn, đáp ứng tiêu chuẩn cao về chất lượng và phát triển bền vững của các thị trường.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Trong đó, với nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản, giảm dần xuất khẩu đối với khoáng sản quan trọng kể cả dưới dạng tinh quặng.

Với nhóm hàng nông, lâm, thủy sản, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng, mở rộng thị trường và thương hiệu hàng hóa của Việt Nam. Chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế biến sâu, chất lượng cao và các sản phẩm công nghệ cao. Nâng cao khả năng đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội, môi trường, phát thải các bon thấp và lao động.

Nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo: Tiếp tục mở rộng xuất khẩu để khai thác có hiệu quả tiềm năng thị trường gắn với chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, có tỷ lệ nội địa hoá lớn và đáp ứng tiêu chuẩn cao về tiêu chuẩn chất lượng và phát triển bền vững của các thị trường. Nâng cao thị phần xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa công nghiệp chế biến chế tạo lên khoảng 90%, trong đó tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa công nghệ trung bình và cao tăng lên khoảng 70%.

Còn với nhóm hàng mới, rà soát các mặt hàng mới có kim ngạch hiện nay còn thấp nhưng có tiềm năng tăng trưởng cao trong thời gian tới để có các chính sách khuyến khích phát triển, tạo sự đột phá trong xuất khẩu như các sản phẩm Halal sang các thị trường Hồi giáo, sản phẩm Kosher sang thị trường Do thái, các loại quả tươi sang thị trường châu Âu và Hoa Kỳ, các loại hàng hóa xanh và tuần hoàn, thân thiện môi trường và khí hậu, hàng hóa môi trường và các bon thấp.... Phấn đấu đến năm 2030 có thêm khoảng 10 nhóm sản phẩm gia nhập nhóm 1 tỷ USD.

Tăng cường đa dạng hóa thị trường xuất khẩu để không phụ thuộc quá lớn vào một số thị trường và giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực từ các cuộc xung đột thương mại. Chú trọng phát triển xuất khẩu qua thương mại điện tử xuyên biên giới, hệ thống phân phối nước ngoài.

Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nêu rõ, để hướng đến xuất khẩu bền vững, Bộ Công Thương sẽ hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch gắn với xây dựng thương hiệu, thúc đẩy xuất khẩu bền vững. Nhất là các tỉnh Nam Bộ, Trung Bộ đối với sản phẩm nông sản phải tìm hiểu, đáp ứng được yêu cầu tại các thị trường, hướng tới xuất khẩu chính ngạch.

“Nếu xuất khẩu chính ngạch thì trong mọi tình huống không bao giờ chúng ta bị thiệt hại. Đồng thời, tập trung đẩy mạnh khai thác các hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết, phát huy tốt vai trò hệ thống cơ quan thương vụ nước ngoài, cảnh báo sớm nguy cơ các vụ kiện phòng vệ thương mại để các doanh nghiệp có thông tin xây dựng kế hoạch sản xuất, xuất khẩu có hiệu quả” - Bộ trưởng nhấn mạnh.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Bộ Công Thương cũng sẽ tiếp tục đổi mới công tác xúc tiến thương mại, kết hợp chặt chẽ giữa thương mại truyền thống với hiện đại.

Bộ Công Thương đã chỉ đạo Tổng cục Quản lý thị trường quán triệt toàn ngành tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường; đẩy mạnh đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, gian lận xuất xứ, cạnh tranh không bình đẳng. Cùng với đó, nâng cao năng lực phòng vệ thương mại, bảo đảm môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh, bình đẳng cho doanh nghiệp, bảo vệ sản xuất và lợi ích người tiêu dùng trong nước, phù hợp với các cam kết quốc tế.

Về lâu dài là vậy, còn bài toán trước mắt là giải quyết các khó khăn của năm 2023. Theo đó, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng, về phía các doanh nghiệp, trong bối cảnh xuất nhập khẩu đang gặp vô vàn khó khăn trước tình hình lạm phát của thế giới, để tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu thời gian tới, góp phần thực hiện hoàn thành mục tiêu kế hoạch năm 2023, các doanh nghiệp và Hiệp hội ngành hàng, thứ nhất, cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt và vận dụng các chủ trương, quan điểm, cơ chế, chính sách hiện có của Đảng, Nhà nước. Triệt để khai thác các thị trường mà nước ta là thành viên trong các FTA để đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu. Đồng thời, từ thực tiễn hoạt động, khẩn trương kiến nghị đề xuất với Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các cơ chế chính sách phù hợp, khả thi; vừa chú trọng khai thác thị trường truyền thống, vừa quan tâm khai mở thị trường mới, có tiềm năng để xuất khẩu hàng hóa và thúc đẩy sản xuất trong nước.

Thứ hai, tập trung nghiên cứu và tăng cường nắm bắt cơ chế chính sách của các nước nhập khẩu (nhất là những cơ chế, chính sách mới) để có những “phản ứng chính sách kịp thời, phù hợp, nhằm bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của doanh nghiệp, người sản xuất, lợi ích quốc gia, dân tộc. Đồng thời, các hiệp hội làm tốt công tác thông tin thị trường, nhất là việc tổ chức các khóa tập huấn, đào tạo về kỹ năng thâm nhập, khai thác các thị trường và điều chỉnh chiến lược sản xuất, kinh doanh) của các doanh nghiệp thành viên, qua đó nâng cao năng lực mọi mặt của các doanh nghiệp.

Thứ ba, chú trọng nghiên cứu Luật pháp quốc tế, Luật pháp nước sở tại để làm tốt chức năng phòng vệ thương mại trong các vụ việc có tranh chấp (giữa các doanh nghiệp nước ta và các đối tác khác, nhất là doanh nghiệp nước ngoài); đồng thời tăng cường hướng dẫn, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu ứng phó, vượt qua các rào cản kỹ thuật của các nước nhập khẩu.

Thứ tư, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu cần mạnh mẽ tái cơ cấu doanh nghiệp trong các khâu quản trị, tổ chức sản xuất, tiết giảm chi phí, đồng thời đẩy mạnh liên kết sản xuất và chuyển mạnh sang xuất khẩu chính ngạch gắn với xây dựng các thương hiệu sản phẩm để xuất khẩu bền vững.

Thứ năm, tập trung củng cố các hiệp hội, khắc phục tình trạng “mạnh ai nấy chạy, việc ai nấy làm” để xây dựng, phát triển hiệp hội ngày càng lớn mạnh, cùng nhau phát triển.

“Để làm tốt nhất các nhiệm vụ nêu trên, đề nghị các Hiệp hội, doanh nghiệp liên hệ chặt chẽ với Thương vụ và cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế với các đối tác nước ngoài; củng có quan hệ giữa hiệp hội sản xuất và hiệp hội xuất khẩu ở cả trong và ngoài nước; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực (chuyên nghiệp); làm tốt công tác truyền thông…” - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị.

DOANH NGHIỆP VÀO CUỘC

Có thể thấy, định hướng xuyên suốt và rõ nét trong thời gian tới đối với hoạt động xuất nhập khẩu chính là hướng tới xuất nhập khẩu hàng hoá bền vững. Đây cũng là xu hướng không thể khác trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều chuyển biến, cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt hơn. Các doanh nghiệp cũng đang tích cực vào cuộc để hướng tới mục tiêu này.

Bà Phan Thị Thanh Xuân - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký - Hiệp hội Da giày – Túi xách Việt Nam chia sẻ, đối với ngành da giày, trong khoảng 10-15 năm trở lại đây, tình hình phát triển nguồn nguyên phụ liệu khá tích cực, trong đó có thể nói là nhờ vào việc tham gia các FTA, đặc biệt là các yêu cầu về xuất xứ, đảm bảo tỷ lệ % nội địa hoá từ các FTA cũng là động lực cho các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu đầu tư vào Việt Nam và ngay các doanh nghiệp trong nước cũng đã đầu tư mở rộng sản xuất.

“Như chúng ta thấy, trước đây tỷ lệ nội địa ngành da giày của chúng ta chỉ khoảng 40-45%, thì nay đã tăng lên 55%, riêng đối với mặt hàng giày thể thao chúng ta đã chủ động được 70-80% nguyên phụ liệu trong nước; và các thành phần sản xuất chính của giày đã được sản xuất tại Việt Nam” – bà Xuân chỉ rõ. Hiện nay tỷ lệ nội địa hoá của ngành da giày ở mức 55% là khá được cải thiện. Ngành da giày đặt mục tiêu thời gian tới nâng dần lên từ 70-80% cho chung nguyên phụ liệu của toàn ngành.

Đối với ngành hàng lúa gạo, theo ông Phạm Thái Bình - Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An, trước đây, phần lớn gạo Việt Nam khi xuất khẩu sang EU đều là gạo thô, chưa có thương hiệu riêng. Các doanh nghiệp nhập khẩu sau khi nhập về sẽ đóng bao bì, nhãn mác của họ lên sản phẩm gạo Việt Nam để bán cho người tiêu dùng. Chẳng hạn, gạo Việt Nam được bán tại Anh quốc với các thương hiệu do các nhà phân phối đặt như: Longdan, Golden Lotus, Buffalo (của Longdan Supermarket), Green Dragon (của Westmill UK) và Red Ant (của MediFood).

Thời gian gần đây, doanh nghiệp đã chú trọng việc xây dựng thương hiệu nên yêu cầu các đối tác nhập khẩu từ phía EU nếu muốn mua gạo sạch, gạo thơm của Công ty Trung An phải đóng bao bì gạo Việt Nam, gắn thương hiệu của Việt Nam. “Ban đầu, chúng tôi lo đối tác sẽ giảm lượng mua và bỏ đơn hàng, nhưng thực tế phía đối tác EU vẫn đặt hàng, người tiêu dùng phản hồi thông tin rất tích cực” – ông Phạm Thái Bình nói.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vữngLongform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Tương tự, cuối tháng 6/2022, Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời hoàn tất việc xuất khẩu gần 500 tấn gạo mang thương hiệu riêng của tập đoàn - “Cơm Việt Nam Rice” - sang thị trường châu Âu. Hoạt động xuất khẩu này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong toàn bộ chuỗi giá trị sản xuất của tập đoàn. Lần đầu tiên, gạo do Lộc Trời tham gia sản xuất, mang thương hiệu riêng được xuất khẩu sang thị trường chất lượng cao.

Ông Nguyễn Văn Hiếu - Giám đốc Xuất khẩu Công ty cổ phần Nông sản Lộc Trời cho biết: “Gạo thương hiệu “Cơm Việt Nam Rice” đã xuất khẩu sang thị trường Pháp, Ðức, Hà Lan. Toàn bộ các lô hàng này được vận chuyển bằng đường biển, bảo đảm về chất lượng và được đóng gói trong bao bì riêng đã đăng ký mẫu mã quốc tế của tập đoàn. Riêng lượng gạo “Cơm Việt Nam Rice” xuất khẩu sang Pháp đã được bày bán trong Carrefour - hệ thống đại siêu thị lớn nhất và nhận được phản hồi tích cực. Dự kiến tới đây, thương hiệu gạo này sẽ được tiếp tục phát triển vào thị trường Mỹ và các nước khác trong khối EU”.

Thời gian tới, các doanh nghiệp cho rằng, cần thiết lập Chương trình quốc gia xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam. Các doanh nghiệp ngành gạo cần đồng loạt vào cuộc, cùng nhau đầu tư về hình ảnh và marketing cho thương hiệu gạo Việt Nam; đầu tư về chất lượng vùng trồng, xây dựng vùng nguyên liệu lớn được canh tác theo tiêu chuẩn cao, sản xuất khép kín từ cánh đồng đến bàn ăn... Đây cũng là câu chuyện chung cho ngành hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Chuyên gia kinh tế Lê Quốc Phương – Nguyên Phó Giám đốc Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại – Bộ Công Thương “hiến kế”, để thúc đẩy xuất khẩu phát triển theo hướng bền vững, điều quan trọng, nhà nước cần có chính sách khuyến khích, đảm bảo thực thi làm sao để xuất khẩu chuyển mạnh tăng về chất lượng, giá trị gia tăng, tăng được tỉ lệ nội địa hoá, công nghệ cao hơn. Đầu tiên là phải phát triển được công nghiệp hỗ trợ để tận dụng được các ưu đãi của các FTA, để làm được điều này cần chi phí rất lớn. Về vấn đề này mặc dù chúng ta đã đưa ra kế hoạch từ lâu song chưa làm được nhiều.

Thêm nữa là tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, làm sao để doanh nghiệp vươn lên ngang bằng với các doanh nghiệp FDI trong nhiều lĩnh vực. Đó là những giải pháp lớn mà nhà nước cần tập trung.

Ngoài ra, vẫn còn nhiều chính sách, giải pháp khác, như để đẩy mạnh xuất khẩu phải tận dụng tốt các FTA, hiện chúng ta chưa tận dụng được nhiều. Bên cạnh đó nữa, cần đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm chi phí thời gian cho doanh nghiệp để doanh nghiệp tập trung vào sản xuất kinh doanh. Và đặc biệt, cần phải đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực.

“Đối với hoạt động nhập khẩu, chúng ta vẫn phải kiểm soát tốt. Hay như các biện pháp phòng vệ thương mại, chống lẩn tránh cũng phải tăng cường làm trong giai đoạn hiện nay có thể tận dụng được lợi thế từ các FTA” – ông Lê Quốc Phương chỉ rõ.

Đó là đối với nhà nước, còn đối với doanh nghiệp cần tận dụng tốt các biện pháp hỗ trợ của nhà nước; Có chiến lược phát triển phù hợp khi chúng ta đang tham gia sâu rộng thế giới. Cần đổi mới sáng tạo, hạ giá thành sản phẩm, chuyển đổi số, đổi mới quy trình công nghệ, đổi mới nguồn nhân lực. Những giải pháp này cần đồng bộ không chỉ của nhà nước mà của cả chính doanh nghiệp cùng thực hiện mới có thể hướng đến xuất khẩu bền vững đáp ứng các yêu cầu FTA đề ra.

MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG THÔNG QUA CÁC FTA MỚI

Cùng với việc hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt nhất những FTA đã có hiệu lực để vào sâu các thị trường truyền thống, một trong những giải pháp mà Bộ Công Thương đang nỗ lực hết sức để triển khai mà mở rộng thị trường cho doanh nghiệp thông qua các FTA với những thị trường mới. Đây được đánh giá là giải pháp quan trọng để đa dạng hóa thị trường, khơi mở những cơ hội mới và giảm rủi ro trong xuất khẩu hàng hóa cho doanh nghiệp.

Tháng 4 vừa qua, Bộ Công Thương phát đi một thông báo vui với doanh nghiệp là FTA Việt Nam – Israel đã chính thức kết thúc đàm phán sau 7 năm với 12 phiên đàm phán liên tục. Ngay sau đó vài ngày, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên và Tiến sĩ Thani bin Ahmed Al Zeyoudi - Quốc vụ khanh phụ trách Thương mại quốc tế, Bộ Kinh tế UAE đã ký Tuyên bố cấp Bộ trưởng về việc khởi động đàm phán Hiệp định CEPA ngay sau khi Việt Nam hoàn tất thủ tục trong nước.

Phải khẳng định, thời gian vừa qua, các FTA có hiệu lực đã đóng góp rất tích cực cho hoạt động xuất nhập khẩu. Theo khảo sát của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có đến 76% số doanh nghiệp cho rằng các FTA sẽ tiếp tục có tác động tới triển vọng kinh doanh trong ít nhất ba năm tới và phần lớn là tác động tích cực. Bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) chia sẻ, lợi ích phổ biến nhất của các FTA mang đến cho doanh nghiệp đến từ các ưu đãi thuế quan cũng như hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

Lợi ích lớn từ các FTA đã khiến Bộ Công Thương quyết tâm đàm phán để ký kết nhiều các FTA mới. Tuy nhiên, do Việt Nam đã có FTA với hầu khắp các thị trường truyền thống nên Bộ Công Thương đang thúc đẩy đàm phán FTA với các thị trường xa.

Phải khẳng định rằng quá trình để đàm phán các FTA là không hề đơn giản vì hầu hết các FTA đều mất thời gian lên đến hàng chục năm để đàm phán, tốn kém rất nhiều công sức và tiền của. Song Bộ Công Thương luôn nỗ lực đẩy mạnh việc đàm phán vì những lợi ích mà các FTA này mang lại.

Đơn cử, về lợi ích thương mại, các thị trường xa như Israel, UAE không có lợi thế về khoảng cách địa lý hoặc thói quen tiêu dùng hay dung lượng thị trường lớn như các thị trường EU hay Trung Quốc… song các thị trường này đóng vai trò quan trọng trong đa dạng hóa thị trường xuất khẩu cũng như kêu gọi đầu tư vào thị trường trong nước. Đặc biệt, trong bối cảnh các rào cản thương mại được các thị trường truyền thống dựng lên ở khắp nơi, các thị trường mới sẽ bù đắp được phần nào những khó khăn cho hoạt động xuất khẩu.

Ví dụ, với thị trường UAE, ông Nguyễn Hữu Trí – Giám đốc Giám đốc Công ty TNHH Sản xuất – Thương mại Nông sản thực phẩm Trí Việt chia sẻ, UAE là thị trường lớn, tương đương thị trường Mỹ. UAE có khoảng 12 nước với dân số khoảng 700 triệu dân. Đây là “vùng trắng” về nông sản nên lệ thuộc về nông nghiệp ở các nước, các khu vực khác. Đồng thời, đây cũng là thị trường có sức mua lớn, năng lực tài chính cao.

Hiện tại Trí Việt đang chào 2 nhóm sản phẩm vào thị trường UAE. Thứ nhất là nhóm sản phẩm thức ăn chăn nuôi và thứ 2 là bột gia vị (bột tiêu, tỏi, quế, hồi, gừng…). Trong định hướng phát triển của công ty, UAE là 1 trong 3 thị trường chủ lực.

Ông Đặng Phúc Nguyên - Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam cho hay, việc đàm phán hiệp định thương mại Việt Nam - UAE giúp ngành rau quả có điều kiện tốt hơn. Khi hiệp định được ký kết, các thị trường sẽ mở cửa cho hàng hóa của nhau. Điều này có lợi cho ngành rau quả của Việt Nam.

“UAE là thị trường có thu nhập cao, song mặt hàng nông sản hạn chế (chỉ có mặt hàng chà là). Khi Việt Nam có FTA với UAE, hàng hóa sẽ có lợi thế cạnh tranh cao hơn so với các nước nhờ mức thuế giảm xuống” - ông Đặng Phúc Nguyên nói.

Chưa kể, về tiềm năng thu hút đầu tư, Việt Nam luôn mong muốn thu hút đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Tuy nhiên, từ trước đến nay, việc thu hút đầu tư này vẫn chưa đạt kết quả như kỳ vọng. Trong khi đó, Israel là một nền kinh tế có công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ trong nông nghiệp. Do đó, các cơ quan chức năng mong muốn FTA này sẽ mang lại cơ hội tăng đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp.

Cơ hội mở rộng đầu tư, thương mại là có. Song các chuyên gia cho rằng, việc gia tăng cơ hội thương mại, đầu tư cần đi kèm với sự hiểu biết một cách đầy đủ của doanh nghiệp về từng thị trường.

Đơn cử, với thị trường UAE, đây là thị trường có sức mua lớn, năng lực tài chính cao. Tuy nhiên khu vực này là thị trường hồi giáo nên để xuất khẩu được vào thị trường này cần phải làm đúng, tuân thủ các quy định về hàng hóa, cụ thể là tiêu chuẩn Hala. Bên cạnh đó, mức giá hàng hóa phải rẻ.

Song với thị trường này phải giải quyết một số thách thức như: khai thông kênh liên kết, về văn hóa và tài chính. Bởi hiện nay kênh giao thương giữa Việt Nam và khu vực UAE chưa tốt, chưa được khai thông. Hiện hàng hóa vào khu vực này chủ yếu qua 2 cổng là Dubai và Quatar.

Với Israel, các doanh nghiệp Israel muốn mua hàng thành phẩm, đã qua chế biến, có giá trị gia tăng cao, được đóng gói sẵn bao bì hoàn chỉnh, nhất là đối với nhóm hàng lương thực thực phẩm và hàng tiêu dùng, hàng điện tử và hàng gia dụng, để mang về đưa vào các kênh phân phối hoặc chuỗi siêu thị bán lẻ cho người tiêu dùng có thể sử dụng được ngay sau khi mua hàng.

Israel cũng yêu cầu hàng hóa nhập khẩu phải tuân thủ chặt chẽ các tiêu chuẩn bản địa nhiều khi mang tính chất đặc thù. Bên cạnh đó, Israel cũng áp dụng theo các tiêu chuẩn của EU, Mỹ và thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát khá nghiêm ngặt.

Đặc biệt doanh nghiệp còn phải vượt qua rào cản về ngôn ngữ và văn hóa cũng như đối mặt với một đối thủ lớn là Ấn Độ.

Tuy nhiên trên thực tế, kinh nghiệm từ quá trình triển khai các FTA thời gian qua cũng cho thấy, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ dần bắt nhịp với thị trường và tận dụng ưu đãi chỉ sau một thời gian tiếp cận. Các FTA mới sẽ mang lại cơ hội đa dạng hóa thị trường tuyệt vời với tất cả các doanh nghiệp. Do đó, hầu hết doanh nghiệp ngành hàng đều kỳ vọng các FTA mới sẽ sớm đi đến ký kết và áp dụng vào thực tế để sớm hiện thực hóa các lợi ích, mang lại hiệu quả tích cực, đưa hoạt động xuất nhập khẩu đạt được nhiều thành tích hơn, góp phần tăng trưởng kinh tế bền vững trong thời gian tới.

Longform | Bài 3: Giải bài toán xuất nhập khẩu bền vững

*Bài dự thi Cuộc thi chính luận Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Thực hiện: Phương Lan - Thu Trang

Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá đến năm 2030: Điểm nhấn quan trọng Ngành Công Thương: Hướng tới mục tiêu xuất nhập khẩu bền vững

Phương Lan - Thu Trang

Có thể bạn quan tâm

Các tỉnh Tây Nguyên cần tăng cường tính liên kết vùng để phát triển kinh tế

Các tỉnh Tây Nguyên cần tăng cường tính liên kết vùng để phát triển kinh tế

Đắk Lắk giữ vai trò nòng cốt trong liên kết vùng Tây Nguyên trong các hoạt động xúc tiến thương mại và xuất nhập khẩu theo quy mô chuyên nghiệp.
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Singapore: Giữ đà tăng trưởng

Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Singapore: Giữ đà tăng trưởng

Trong tháng 3/2024, xuất khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Singapore tiếp tục giữ được mức tăng trưởng dương khá tốt (tăng 7,69%), đạt 603,3 triệu SGD.
Lào Cai: Giá trị xuất nhập khẩu trong tháng 4 tăng trên 60% so với cùng kỳ

Lào Cai: Giá trị xuất nhập khẩu trong tháng 4 tăng trên 60% so với cùng kỳ

Thống kê từ Sở Công Thương tỉnh Lào Cai, tổng giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa trên địa bàn trong tháng 4/2024 tăng trên 60% so với cùng kỳ năm 2023.