Doanh nghiệp cơ khí Việt Nam cần nâng cao tính chủ động
Kém chủ động, thiếu chuyên nghiệp
Theo Quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011- 2020 có xét đến năm 2030 (Quy hoạch điện VII), chỉ riêng nhiệt điện chạy than đã phải xây dựng 54 nhà máy, tổng vốn đầu tư giai đoạn 2011-2030 khoảng 123,8 tỷ USD. Đây có thể được coi là “cơ hội vàng” cho ngành cơ khí nước nhà, nhất là Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 1791/QĐ-TTg ngày 29/11/2012 phê duyệt cơ chế thực hiện thí điểm thiết kế, chế tạo trong nước thiết bị các nhà máy nhiệt điện trong giai đoạn 2012-2025.
Gần đây, ngày 16/5, Nhà máy nhiệt điện Sông Hậu 1 công suất 1.200MW với tổng mức đầu tư hơn 43.000 tỷ đồng đã được khởi công tại Hậu Giang. Đây cũng là một trong những dự án với kỳ vọng đạt được tỷ lệ nội địa hóa cao theo tinh thần của Quyết định 1791... Tuy nhiên, theo ông Lê Văn Tuấn- Tổng giám đốc Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama), DN tổng thầu EPC dự án- Sông Hậu 1 là dự án thuộc diện cấp bách, được hưởng cơ chế đặc thù theo Quyết định 2414/QĐ-TTg, cộng thêm quan điểm “nội địa hóa theo Quyết định 1791 bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu” nên nếu nhà thầu nào đạt yêu cầu, Lilama sẵn sàng mời tham gia. Nhưng, đến nay Lilama mới chỉ nhận được hợp tác của Viện Nghiên cứu cơ khí và hiện hai bên vẫn đang trong quá trình đàm phán. Các DN khác chưa có động thái gì về các phần việc sẽ làm được trong nhà máy.
Ngoài thiếu tính chủ động, các DN cơ khí trong nước còn thiếu chuyên nghiệp. Ông Nguyễn Văn Thụ- Chủ tịch Hiệp hội DN cơ khí Việt Nam (VAMI)- cho rằng, có nhiều DN nước ngoài nhiều lần đặt hàng DN cơ khí trong nước chế tạo thiết bị xuất khẩu, nhưng các đơn hàng ngày càng ít đi, do chất lượng không ổn định và giao hàng không đúng hẹn. Nhiều DN chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của công việc này, chất lượng chỉ bảo đảm đơn hàng đầu tiên, những đơn hàng sau chất lượng ngày càng kém, giao hàng không đúng hẹn, mất uy tín, khiến khách hàng nước ngoài “một đi không trở lại”. Bên cạnh đó, nhiều DN trong nước vẫn loay hoay với thị trường cũ, chế tạo thiết bị cho ngành xi măng, thủy điện,... trong khi thị trường xi măng đã bão hòa, thủy điện đã dịch chuyển sang nhiệt điện....
Chính sách cần phù hợp hơn
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 10/2009/QĐ-TTg ngày 16/1/2009 về cơ chế hỗ trợ phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm và danh mục các sản phẩm cơ khí trọng điểm; danh mục dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015. Trong đó có chỉ rất rõ những chính sách ưu đãi cụ thể về vốn tín dụng, thuế... Tuy nhiên, thực tế các DN cơ khí trong nước chưa được hưởng nhiều ưu đãi từ Quyết định này do một số chính sách triển khai không khả thi. Tại nhiều hội nghị, hội thảo, các DN cơ khí đã đề xuất nhiều lần nhưng xem ra đâu vẫn đấy!.
Nhìn sang các nước phát triển ngành cơ khí như Hàn Quốc, Nhật Bản, có thể thấy những chính sách của họ ưu việt hơn rất nhiều. Ông Ryu Hang Ha- Tổng giám đốc Công ty TNHH công nghiệp nặng Doosan Việt Nam- cho biết, Hàn Quốc luôn duy trì mức độ bảo hộ nhất định cho các sản phẩm cơ khí trong nước bằng các biện pháp như: Xây dựng hàng rào kỹ thuật đối với sản phẩm nhập khẩu, có thể chỉ định thầu trong lĩnh vực xây dựng và cơ khí. Các dự án trọng điểm cần thống nhất từ trên xuống dưới là phải ưu tiên sử dụng hàng trong nước và các DN trong nước cũng nâng cao ý thức sử dụng sản phẩm của nhau...
Là một nước có nền công nghiệp phát triển, Nhật Bản cũng có những chính sách bảo hộ trong nước rất cao. Đơn cử, các thiết bị của nhà máy nhiệt điện, cẩu cảng không cho phép nhập khẩu, cho dù giá trong nước đắt gấp nhiều lần. Ông Ryu Hang Ha đề xuất: Việt Nam cần quy định rõ và có tính bắt buộc tỷ lệ phần trăm giá trị gói thầu dành cho các nhà thầu trong nước, khiến các nhà thầu nước ngoài phải điều chỉnh, hỗ trợ các nhà thầu trong nước đáp ứng được yêu cầu của dự án. Đồng thời, đề xuất danh mục sản phẩm cơ khí trọng điểm được ưu đãi để tránh những phiền hà về thủ tục với các cơ quan thuế, hải quan. Các sản phẩm mới có tính dài hạn, có khả năng áp dụng vào thực tế cao và có thị trường tiềm năng, phải nghiên cứu áp dụng những cơ chế ưu tiên ở mức cao nhất. Cần mạnh dạn giao cho DN có năng lực trong nước thực hiện các gói thầu EPC và có chính sách ưu đãi về tài chính đối với chủ đầu tư, ưu tiên sử dụng sản phẩm cơ khí trọng điểm...
Ông Phạm Anh Tuấn- Phó Vụ trưởng Công nghiệp nặng (Bộ Công Thương)- chia sẻ, quan trọng nhất hiện nay vẫn là tín dụng. Lãi suất ưu đãi đầu tư của Ngân hàng Phát triển Việt Nam hiện nay là 10,5%/năm, coi như cánh cửa ưu đãi đã khép trước mặt ngành cơ khí.
Kỳ III: Trở thành “mắt xích” trong chuỗi toàn cầu
Đến năm 2025, tính riêng nhà máy nhiệt điện đã có tổng vốn đầu tư khoảng 120 tỷ USD. Các DN cơ khí trong nước chỉ cần đảm nhận 30% khối lượng công việc, đã có doanh thu gần 40 tỷ USD. |
TIN LIÊN QUAN | |
Kỳ I: “Vòng kim cô” kìm hãm sự phát triển |