Kinh tế Việt Nam có thể duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong trung hạn Kinh tế Việt Nam: Nắm bắt thời cơ, tạo động lực tăng trưởng |
Triển vọng thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn rất bấp bênh
Kinh tế Việt Nam 2024 đã đi được 1/4 chặng đường trong bối cảnh kinh tế thế giới dần hồi phục nhưng bấp bênh, đối mặt với nhiều yếu tố rủi ro, bất định. Tăng trưởng kinh tế toàn cầu đang bị kìm hãm bởi ảnh hưởng của xung đột và rủi ro địa chính trị; sự suy giảm của các giải pháp kích cầu và lãi suất vẫn ở mức cao; giá hàng hóa cơ bản biến động khó lường; lạm phát dai dẳng và có thể trỗi dậy; tình trạng phân mảng địa kinh tế gia tăng; khủng hoảng bất động sản ở Trung Quốc và thời tiết cực đoan.
Các tổ chức tài chính và kinh tế quốc tế đều dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 thấp hơn năm 2023.
Đặc biệt, do những thách thức như xung đột leo thang, thương mại toàn cầu yếu, lãi suất cao và thảm họa khí hậu gia tăng, Liên Hợp Quốc đưa ra dự báo ảm đạm với mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu chỉ đạt 2,4% trong năm nay, thấp hơn 0,3 điểm phần trăm so với năm trước.
IMF dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2024 của Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản - các nền kinh tế lớn hàng đầu thế giới, là đối tác thương mại quan trọng của nước ta, đều thấp hơn năm 2023.
Theo đó, kinh tế khu vực Eurozone tăng 0,8%, cao hơn 0,2 điểm phần trăm so với năm trước. Kinh tế Đức - Nền kinh tế lớn nhất châu Âu được cho là rơi vào suy thoái kỹ thuật sau quý đầu tiên của năm 2024.
Các tổ chức tư vấn kinh tế hàng đầu ở Đức đã điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng của kinh tế Đức năm 2024 từ 1,2% xuống 0,1%. Điều này sẽ giảm tốc độ tăng trưởng của khu vực Eurozone so với mức dự báo tăng 0,8% trước đây.
Căng thẳng địa chính trị dai dẳng, vấn đề Biển Đỏ, mức nợ cao và tính bấp bênh của các nền kinh tế tác động tiêu cực đến mô hình thương mại toàn cầu. Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển dự báo triển vọng thương mại toàn cầu năm 2024 vẫn rất bấp bênh, nhìn chung là bi quan.
Kinh tế nước ta vẫn phải đối mặt với những khó khăn thách thức không hề nhỏ
Trong nước, kinh tế nước ta vẫn phải đối mặt với những khó khăn thách thức không hề nhỏ của nền kinh tế có độ mở lớn, tổng cầu tiêu dùng phục hồi chậm, đan xen với thách thức mang yếu tố chủ quan từ nội tại của nền kinh tế.
Khu vực doanh nghiệp vẫn phải đối mặt với những khó khăn về thị trường đầu ra, thiếu đơn hàng, thiếu vốn và lao động có kỹ năng.
Trong quý I/2024, tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và chính phủ tăng 4,93%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá so sánh chỉ tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 tăng 10,1%).
Điều này phản ánh khó khăn của các hộ gia đình khi việc làm và thu nhập vẫn bị ảnh hưởng do sự phục hồi chậm và yếu của nền kinh tế; tỷ lệ hộ gia đình gặp khó khăn về tài chính còn cao, phải thắt chặt chi tiêu.
Tổng cầu tiêu dùng trong nước và thế giới phục hồi chậm, doanh nghiệp khó khăn trong tìm kiếm thị trường tiêu thụ, khả năng tài chính hạn hẹp là nguyên nhân chủ yếu khiến số doanh nghiệp rút khỏi thị trường trong 3 tháng đầu năm 2024 ở mức cao, gấp 1,23 lần số doanh nghiệp gia nhập thị trường.
Trong quý I/2024, cả nước có 36,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới;23,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động; bình quân một tháng có gần 20 nghìn doanh nghiệp ra nhập thị trường.
Tuy vậy, trong quý này có 53,4 nghìn doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn; 15,5 nghìn doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể; có 5,1 nghìn doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể; bình quân một tháng có gần 24,7 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.
TS. Nguyễn Bích Lâm: Trong khó khăn, thách thức luôn xuất hiện cơ hội. Năm 2024, kinh tế nước ta có những điểm sáng, với thời cơ và vận hội mà không phải quốc gia nào cũng có được để phát huy hiệu quả hơn các động lực hiện có và tạo dựng các động lực mới cho phát triển. |
Phát huy vai trò nền kinh tế kết nối, tận dụng hiệu quả động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu
Trong khó khăn, thách thức luôn xuất hiện cơ hội. Năm 2024, kinh tế nước ta có những điểm sáng, với thời cơ và vận hội mà không phải quốc gia nào cũng có được để phát huy hiệu quả hơn các động lực hiện có và tạo dựng các động lực mới cho phát triển.
Đối mặt với khó khăn, thách thức, với sự năng động của doanh nghiệp trong nắm bắt tín hiệu thị trường, chủ động tìm kiếm đơn hàng, giữ được thị trường truyền thống, quan trọng, nhiều tiềm năng, mở thêm thị trường mới; với tinh thần trách nhiệm, nỗ lực của Chính phủ trong đàm phán mở thêm thị trường xuất khẩu chính ngạch cho các mặt hàng xuất khẩu.
Hoạt động thương mại hàng hoá quốc tế là điểm sáng trong bức tranh kinh tế quý I/2024 của nước ta với xuất siêu 3 tháng đầu năm đạt 8,08 tỷ USD, phản ánh vai trò và vị thế của kinh tế Việt Nam trong hoạt động thương mại quốc tế; phản ánh năng lực của nền kinh tế trong việc củng cố và thúc đẩy động lực tăng trưởng dựa vào xuất khẩu, tạo sự ổn định vĩ mô thông qua gia tăng nguồn lực ngoại tệ trong bối cảnh giá trị đồng USD tăng, tạo thêm dư địa để Ngân hàng Nhà nước giữ ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng.
Tuy vậy, xuất siêu của nền kinh tế dựa vào khu vực FDI, khu vực kinh tế trong nước vẫn nhập siêu. Bên cạnh đó, xuất siêu 3 tháng đầu năm do xuất khẩu rau quả và gạo vẫn tiếp được đà của quý 4 năm trước; ngành dệt may, da giầy đã có được đơn hàng mới đến hết tháng 6/2024. Những lợi thế này khó duy trì trong cả năm 2024.
Bức tranh thương mại hàng hóa quốc tế trong 3 tháng đầu năm có thêm sắc màu tươi mới đó là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực kinh tế trong nước đạt 26,2%, cao hơn nhiều tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 13,9% của khu vực FDI. Tuy vậy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước còn thấp, chỉ chiếm gần 27,1%trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn nền kinh tế. Xuất, nhập khẩu hàng hoá vẫn phụ thuộc vào khu vực FDI.
Cùng với đó, tiếp theo thành tích và dấu ấn của năm trước, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng rau quả, nông sản và gạo tăng ở mức cao với 2 con số gấp 1,34 lần so với mức tăng của cùng kỳ năm trước.
Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu quý I/2024 so với cùng kỳ năm trước của mặt hàng rau quả tăng 31%; mặt hàng nông sản (điều, cà phê, chè, hạt tiêu) tăng 31,4%; gạo tăng 44,2%.
Một số mặt hàng xuất khẩu truyền thống là thế mạnh của Việt Nam đã chấm dứt đà suy giảm, tăng trưởng cao trở lại như: Gỗ và sản phẩm gỗ tăng 18,9%; dệt may tăng 7,9%; giày dép tăng 11,7%.
Bên cạnh đó, nhập khẩu tư liệu sản xuất đã tăng cao trở lại đạt mức 14,5 %, phản ánh sản xuất của nền kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi.
Tuy vậy, hoạt động thương mại hàng hoá quốc tế của nước ta phụ thuộc vào số ít thị trường. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ chiếm 28,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi đó kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc chiếm 34,6% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Điều này phản ánh hoạt động thương mại hàng hóa quốc tế của Việt Nam dễ bị tổn thương bởi các cú sốc, những bất ổn kinh tế và điều chỉnh chính sách thương mại để hạn chế thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá của các đối tác thương mại này.
Điểm sáng nổi bật, có ý nghĩa quan trọng, nâng cao năng lực, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế trong quý I/2024 đó là thực hiện giải ngân vốn đầu tư công cùng với thu hút và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khởi sắc. |
Phát huy động lực đầu tư công, thu hút và giải ngân vốn FDI khởi sắc
Điểm sáng nổi bật, có ý nghĩa quan trọng, nâng cao năng lực, tạo nền tảng cho phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế trong quý I/2024 đó là thực hiện giải ngân vốn đầu tư công cùng với thu hút và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khởi sắc.
Trong quý I/2024, Thủ tướng Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo và đôn đốc thực hiện giải ngân vốn đầu tư công các dự án trọng điểm quốc gia nhằm phát huy vai trò dẫn dắt, kích hoạt các nguồn lực xã hội cho phát triển, tạo không gian phát triển mới cho nền kinh tế.
Vốn đầu tư công thực hiện quý I/2024 ước đạt 97,7 nghìn tỷ đồng, bằng 13,9% kế hoạch năm và tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 thực hiện đạt 12,9% kế hoạch năm)và tăng 21,6%).
Theo cấp quản lý, vốn trung ương đạt 15,7 nghìn tỷ đồng, bằng 14,2% kế hoạch năm và giảm 8,1% so với cùng kỳ năm trước. Tuy giải ngân vốn đầu tư công của các bộ, ngành, cơ quan trung ương đạt kế hoạch cao hơn mức giải ngân bình quân chung của cả trung ương và địa phương, nhưng tố độ giải ngân giảm so với cùng kỳ năm trước. Vốn địa phương đạt 82 nghìn tỷ đồng, bằng 13,8% kế hoạch và tăng 6,4%.
Kinh tế phục hồi và phát triển ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới mức mục tiêu là sức mạnh nội tại của nền kinh tế đã minh chứng mức độ thành công trong công tác điều hành của Chính phủ giữ vững ổn định vĩ mô, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đặc biệt, với sự hội nhập sâu, rộng vào khu vực và thế giới, Việt Nam đã ký và thực hiện nhiều hiệp định thương mại tự do với hơn 60 đối tác phủ khắp các châu lục đã đưa mức độ tự do hóa tiếp cận thị trường của Việt Nam ngang hàng với Singapore.
Trên góc độ thương mại và đầu tư quốc tế, Việt Nam không có đối thủ về quan hệ đối tác và mức độ cởi mở trong tiếp cận thị trường. Kinh tế nước ta ngày càng khẳng định và củng cố vai trò quan trọng trong chiến lược đa dạng hoá chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia.
Với sự năng động trong cải cách môi trường thể chế, dỡ bỏ các rào cản trong kinh doanh và đầu tư, tạo môi trường thông thoáng, minh bạch được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là cởi mở và thân thiện.
Cùng với đó, Chính phủ đã nới lỏng quy định sở hữu nước ngoài tại các công ty niêm yết làm giảm bớt gánh nặng cho nhà đầu tư, nới lỏng tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các công ty niêm yết; cho phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư không giới hạn vào trái phiếu Chính phủ.
Những thế mạnh của nền kinh tế đã biến Việt Nam trở thành thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, là điểm đến đáng đầu tư nhất. |
Những thế mạnh của nền kinh tế đã biến Việt Nam trở thành thị trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, là điểm đến đáng đầu tư nhất.
Trong quý I/2024 vốn FDI đăng ký đạt 6,17 tỷ USD, tăng 13,4%, tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Số vốn FDI giải ngân rất tích cực, đạt4,63 tỷ USD, tăng 7,1%, tăng cao nhất so với cùng kỳ năm trước trong 5 năm gần đây, cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện đúng cam kết của họ tại thị trường Việt Nam, đồng thời phản ánh năng lực hấp thu và giải ngân vốn đầu tư của nền kinh tế.
Điểm đáng chú ý về vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong quý I/2024 là số dự án mới và số vốn mới đăng ký rất cao. Trong 3 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm trước có 644 dự án được cấp phép, tăng 23,4%; với số vốn đăng ký đạt 4,77 tỷ USD, tăng 57,9%.
Đây là tín hiệu tốt, chúng ta kỳ vọng lượng vốn đăng ký mới này sẽ sớm được giải ngân, thúc đẩy tăng trưởng trong năm 2024 và các năm tiếp theo.
Trong quý I/2024, tổng cầu đầu tư và xuất khẩu của nền kinh tế đã có dấu hiệu khởi sắc hơn so với cùng kỳ năm 2023.
Tích luỹ tài sản phản ánh năng lực và triển vọng phát triển sản xuất của nền kinh tế tăng 4,69%, cao hơn 4,67 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 178 tỷ USD, tăng 15,5%; trong khi đó, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu quý I/2023 đạt 154,2 tỷ USD, giảm 13,5% so với quý I/2022.
Phác họa bức tranh kinh tế năm 2024 qua kết quả tăng trưởng quý I/2024
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2024 tăng 5,66%, cao hơn 2,25 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó giá trị tăng thêm của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực I) tăng 2,98%. Khu vực công nghiệp và xây dựng (khu vực II) tăng 6,28% và khu vực dịch vụ (khu vực III) tăng 6,12%.
So với kịch bản tăng trưởng GDP theo quý để cả năm 2024 đạt mục tiêu tăng 6% - 6,5% thì khu vực I tăng đúng bằng kịch bản (chỉ thấp hơn 0,02 điểm phần trăm); khu vực II cao hơn 0,78 điểm phần trăm so với mức cao trong kịch bản; và khu vực III thấp hơn từ 0,18 đến 0,38 điểm phần trăm so với mức thấp và mức cao trong kịch bản.
Bức tranh tăng trưởng kinh tế quý I/2024 cho thấy khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản vẫn đóng vai trò trụ cột, bệ đỡ của nền kinh tế.
Tuy vậy, chăn nuôi trâu, bò có xu hướng giảm; chăn nuôi lợn và gia cầm vẫn tăng nhưng đang phải đối mặt với sản phẩm nhập khẩu cùng loại, chất lượng thấp, giá rẻ chỉ bằng 50% giá trong nước. Tạithời điểm ngày 1/1/2024, tổng số hộ chăn nuôi lợn và gia cầm trên cả nước giảm 1,94% so với cùng thời điểm năm 2023.
Cùng với nhập khẩu chính ngạch đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế, có một khối lượng rất lớn vật nuôi và sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu tiểu ngạch. Nguyên nhân của tình trạng này là do các quy định về nhập khẩu sản phẩm chăn nuôi của nước ta chưa chặt chẽ, còn nhiều lỗ hổng.
Điều này sẽ làm mất cơ hội và động lực đầu tư của doanh nghiệp, người chăn nuôi trong nước, ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề an ninh thực phẩm quốc gia. Đặc biệt, với tốc độ nhập khẩu như hiện nay, chỉ 3 đến 5 năm tới khi dòng thuế quan các sản phẩm chăn nuôi nhập khẩu về mức 0%, thì Việt Nam sẽ trở thành nước siêu nhập khẩu các sản phẩm chăn nuôi.
Khu vực công nghiệp và xây dựng khởi sắc với tốc độ tăng giá trị tăng thêm đạt 6,28%; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,98%, cùng với ngành xây dựng tăng 6,83% đã lấy lại vai trò là động lực tăng trưởng của nền kinh tế.
Khu vực dịch vụ vẫn giữ được vai trò dẫn dắt tăng trưởng của nền kinh tế với tốc độ tăng đạt 6,12%, nhưng tăng chậm lại so với tốc độ tăng 6,79% của quý I/2023. Một số ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực III như: Bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm đều có mức tăng thấp hơn so với quý I/2023.
Với kết quả tăng trưởng kinh tế của quý I năm nay đã đạt được, để tốc độ tăng GDP cả năm 2024 đạt 6,0% trở lên đòi hỏi tốc độ tăng GDP của 3 quý còn lại trong năm phải đạt trên 6,2%, đây là mức tăng không dễ đạt được trong thực tế khu vực I khó có thể tăng cao trong cả năm; vốn đầu tư công thấp hơn năm trước; khu vực dịch vụ tăng chậm lại do các hộ gia đình vẫn khó khăn về tài chính.
Kiểm soát lạm phát dưới áp lực nới lỏng chính sách tiền tệ, biến động tỷ giá và giá hàng hoá trên thị trường thế giới có xu hướng tăng
Thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Ngân hàng Nhà nước đã thực thi chính sách tiền tệ mở rộng, hạ lãi suất huy động và cho vay, giao toàn bộ hạn mức tín dụng năm 2024 ngay đầu năm với định hướng tăng trưởng cả hệ thống là 15% để tạo thuận lợi cho các tổ chức tín dụng cung ứng nguồn vốn ra nền kinh tế trong bối cảnh đồng đô la Mỹ tăng giá sau khi Fed thông báo giữ nguyên lãi suất trong biên độ 5,25%-5,5%.
Trong nước, chỉ số giá đô la Mỹ bình quân quý I/2024 tăng 3,97% so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, Fed trì hoãn hạ lãi suất điều hành, chênh lệch lãi suất giữa VND và USD trên thị trường liên ngân hàng tiếp tục giữ giá trị âm và nhu cầu ngoại tệ dùng cho nhập khẩu nguyên vật liệu sản xuất khá lớn tạo áp lực gia tăng tỷ giá giữa VND/USD.
Tuy vậy, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, giảm tác động của các cú sốc từ bên ngoài, phát hành tín phiếu để giảm bớt dư thừa thanh khoản VND nên tỷ giá diễn biến phù hợp với diễn biến thị trường. Đến ngày 20/3/2024, tỷ giá thị trường liên ngân hàng chỉ tăng 2,11% so với thời điểm cuối năm 2023.
Cùng với hạ lãi suất Việt Nam đồng và định hướng mức tăng trưởng tín dụng, đồng đô la Mỹ tăng giá, xu hướng gia tăng tỷ giá sẽ tạo áp lực đến kiểm soát lạm phát của nền kinh tế.
Sản xuất trong nước phụ thuộc vào nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu. Trong quý I/2024, giá nhiều loại hàng hóa thế giới như các mặt hàng năng lượng, mặt hàng kim loại quan trọng đều tăng.
Mới đây, giá dầu thế giới đã tăng lên ngưỡng cao nhất trong 5 tháng gần đây, khiến chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý I/2024 tăng 1,39% so với quý trước và tăng 1,25% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,4% so với quý trước và tăng 5,81% so với cùng kỳ năm trước, tạo áp lực rất lớn đối với nhiệm vụ kiềm chế lạm phát trong 3 tháng đầu năm 2024 và mục tiêu kiểm soát lạm phát cả năm.
Với sự chủ động chuẩn bị nguồn hàng và thực hiện các đợt khuyến mại nhằm kích cầu tiêu dùng trong dịp tết cổ truyền và các ngày lễ, tuy vậy, do tổng cầu tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế phục hồi chậm; thị trường đầu ra của doanh nghiệp vẫn trầm lắng; đến ngày 19/3/2024, tín dụng của nền kinh tế chỉ tăng ở mức 0,46% so với cuối tháng trước và giảm 0,26% so với cuối năm 2023 là những nguyên nhân chủ yếu kiểm soát tốt lạm phát trong 3 tháng đầu năm 2024 với kết quả chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2024 giảm 0,23% so với tháng trước; tăng 1,12% so với tháng 12/2023; tăng 3,97% so với cùng kỳ năm trước.
Quý I/2024, CPI bình quân tăng 3,77% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 2,81%.
Xét các yếu tố trong và ngoài nước gây nên biến động giá hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng trong 3 quý còn lại, khả năng kiểm soát lạm phát năm 2024 như mục tiêu đặt ra là khả thi. Tuy vậy chúng ta không nên chủ quan vì các áp lực lạm phát còn rất lớn.
Cần làm gì để thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát năm 2024
Để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước tạo đà thuận lợi phấn đấu đạt cao nhất các mục tiêu theo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Chính phủ và các địa phương cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Một là, đầutư công là động lực quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh tổng cầu thế giới và trong nước phục hồi chậm.
Năm nay cả nước dành 657 nghìn tỷ đồng cho đầu tư công; nếu giải ngân đạt 95% thì cũng chỉ tương đương với số vốn đầu tư công thực hiện của năm 2023; nếu giải ngân hết 657 nghìn tỷ, GDP sẽ tăng thêm 0,3 điểm phần trăm.
Vì vậy, các bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện nghiêm nội dung chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 24/CĐ-TTg ngày 22/3/2024 về việc đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2024.
Đặc biệt, khẩn trương phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2024 theo đúng quy định, không để tiếp tục chậm trễ; việc phân bổ chi tiết kế hoạch vốn phải bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phù hợp với khả năng thực hiện, giải ngân và đúng các quy định pháp luật về đầu tư công.
Chính phủ cần xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình đầu tư công phù hợp, đáp ứng đúng và trúng nhu cầu đầu tư của từng ngành, lĩnh vực và địa phương.
Tập trung đầu tư vào các dự án lớn, xóa bỏ đầu tư dàn trải, giảm thiểu thời gian thực hiện dự án, khẩn trương đưa các công trình vào sử dụng, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có giải pháp phát huy vai trò, gắn trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương trong giải ngân vốn đầu tư công.
Người đứng đầu phải trực tiếp chỉ đạo tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến đất đai, tài nguyên. Đồng thời khẩn trương nâng cao năng lực của chủ đầu tư, nhà thầu thi công, xây lắp.
Đặc biệt, cần tập trung xử lý vấn đề giải phóng mặt bằng (GPMB), Chính phủ nên bố trí GPMB thành một dự án độc lập, được thực hiện với các quy định đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm nâng cao tính sẵn sàng cho việc triển khai dự án.
Các cơ chế và mức bồi thường GPMB phải thỏa đáng, bảo đảm quyền lợi cho người dân khi di dời, tái định cư để có sự đồng thuận khi triển khai.
Bên cạnh đó, cần có cơ chế điều chỉnh kịp thời định mức thầu, giá thầu và giá các loại vật tư, vật liệu xây lắp khi có biến động giá trên thị trường; đảm bảo đầy đủ, kịp thời vật liệu xây lắp, đắp nền.
Hai là, với vai trò quan trọng và ngày càng được củng cố của kinh tế nước ta trong chiến lược đa dạng hoá chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia; với nền tảng chính trị xã hội ổn định và kinh tế phục hồi vững chắc đưa đến triển vọng tạo sự đột phá trong thu hút vốn FDI năm 2024 của Việt Nam.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ cần có giải pháp tăng cường năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghiệp, công nghệ, thông tin và logistics đồng bộ.
Hoàn thiện thể chế, môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và quy định rõ, đơn giản các thủ tục liên quan tới quyền sử dụng đất; phòng cháy chữa cháy.
Cùng với đó, có cơ chế khuyến khích các dự án FDI sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường, tự sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo; đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng và tay nghề với mức lương cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
Ba là, chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và định hình lại chuỗi cung ứng.
Chính phủ khẩn trương hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xuất, nhập khẩu; thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng nguồn cung, tiết giảm chi phí nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính hiệu quả của các cơ quan thương vụ Việt Nam tại nước ngoài để phát triển thị trường xuất khẩu.
Đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu, đặc biệt đối với thị trường nhập khẩu để giảm thiểu tác động của những cú sốc từ các thị trường này.
Chính phủ cần khẩn trương nắm bắt các ngành, lĩnh vực nào sẽ trở thành xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thời gian tới, kịp thời sửa đổi và bổ sung Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu để đưa kinh tế Việt Nam hoà vào dòng chảy, thuộc nhóm đi tiên phong trên một số lĩnh vực của kinh tế thế giới.
Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội và các cam kết từ các Hiệp định thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ; tập trung xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam uy tín.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cần khẩn trương, nhanh nhậy nắm bắt tín hiệu thị trường, giữ vững thị trường truyền thống, chủ động tìm kiếm đơn hàng, mở thêm thị trường mới.
Bốn là, cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng, Chính phủ xem xét tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá nghịch chu kỳ hỗ trợ doanh nghiệp như: giãn, hoãn thời hạn nộp một số khoản thuế, phí cho doanh nghiệp; tiếp tục tháo gỡ rào cản về môi trường pháp lý, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thông thoáng, tạo niềm tin cho khu vực doanh nghiệp.
Năm là, ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, phát triển xanh là xu hướng tất yếu, làm thay đổi rất nhanh cấu trúc kinh tế thế giới; cùng với đó, chuỗi cung ứng toàn cầu được sắp xếp lại, kinh tế nước ta có độ mở lớn, Chính phủ cần nắm bắt thời cơ, kiến tạo động lực mới cho phát triển, khẩn trương xây dựng chiến lược, với các giải pháp toàn diện, đồng bộ, kế hoạch và lộ trình thực hiện chi tiết, cụ thể để tạo dựng và phát triển một số ngành, lĩnh vực sẽ đóng vai trò là động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế như: lĩnh vực công nghệ cao, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo; kinh tế tuần hoàn; năng lượng tái tạo.
Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu công nghệ cao đứng thứ tư thế giới. Chính phủ cần xác định cụ thể phải làm gì; tập trung đầu tư, phát triển ngành nào trong lĩnh vực công nghệ cao; có giải pháp phù hợp và thực thi hiệu quả để biến tiềm năng thành hiện thực, trở thành cường quốc trong xuất khẩu công nghệ cao.
Sáu là, để thực hiện kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương cần có các giải pháp đảm bảo đầy đủ nguồn cung với giá ổn định đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm.
Có kế hoạch và giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Nắm bắt kịp thời giá xăng dầu thế giới, có giải pháp tổng thể bảo đảm đầy đủ nguồn cung xăng dầu.
Đồng thời, mở rộng, nâng cao năng lực dự trữ xăng dầu quốc gia đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Dự báo, xây dựng kế hoạch, giải pháp cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đặc biệt, Chính phủ cần thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ linh hoạt, phù hợp, giữ ổn định vĩ mô. Ngân hàng Nhà nước cũng cần kiên định thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp, hài hoà với nhu cầu. Từ đó, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan trong nền kinh tế, giữ giá trị VND, giảm áp lực lạm phát tiền tệ đối với nền kinh tế; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định giá nguyên vật liệu nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Đồng thời, đánh giá tác động của việc tăng giá dịch vụ y tế, giáo dục đối với lạm phát và tăng trưởng kinh tế để quyết định mức độ, thời điểm điều chỉnh giá các loại dịch vụ do Nhà nước quản lý. Từ đó, đáp ứng mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm tác động đến mức sống của người dân.