Đó là bài “Hiệp ước Thương mại Xô - Pháp góp phần phát triển trao đổi kinh tế giữa Đông và Tây” được đăng trên báo Nhân dân số 264, ngày 16/11/1954 với bút danh T.L.
Ba thập niên 50 - 60 - 70 là những năm cực thịnh của nền kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng là thời điểm thế giới phân cực rõ nhất cả về kinh tế, chính trị, quân sự.
Các nước tư bản, đứng đầu là Mỹ đã tiến hành cuộc cấm vận về kinh tế, đặc biệt là với Liên Xô. Tuy nhiên, không phải quốc gia tư bản nào cũng “ngoan ngoãn” nghe theo “cây gậy chỉ huy” của Mỹ. Và Anh, Pháp, Phần Lan là những điển hình. Họ đã ký Hiệp ước Thương mại với Liên Xô và đó chính là hoàn cảnh ra đời bài báo của Hồ Chủ tịch.
Trong bài viết, Hồ Chủ tịch đã chỉ rõ nguy cơ kinh tế đối với các nước tư bản theo Mỹ, đó là: 1- Trong việc giao dịch thương mại với Mỹ, Mỹ bán nhiều, mua ít gây nên nạn khan hiếm tiền tệ ngoại thương. 2- Bị Mỹ dần dần cướp mất thị trường.
Cuối năm 1954, sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Chính phủ Pháp bắt tay vào khôi phục nền kinh tế đang khủng hoảng trầm trọng nên việc mở ra thị trường mới càng trở nên cấp bách. Trong bài viết, Hồ Chủ tịch nhận định: “Kinh doanh với Liên Xô và khối dân chủ thì chỉ có lợi. Căn cứ nguyên tắc các chế độ khác nhau có thể cùng chung sống hòa bình, chính sách ngoại thương của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân là phát triển trao đổi kinh tế trên cơ sở bình đẳng, hai bên cùng có lợi. Sức mua của khối dân chủ nhân dân rất lớn. Buôn bán với khối dân chủ có thể dùng lối lấy hàng đổi hàng. Thấy rõ lợi ích buôn bán với Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, nhiều chính phủ tư bản và nhiều giới kinh doanh phương Tây bất chấp sự ngăn cấm của đế quốc Mỹ đã ký nhiều hiệp ước và hợp đồng thương mại với Liên Xô và khối dân chủ nhân dân, như Hiệp ước Xô - Phần Lan, Xô - Anh, Xô - Pháp”.
Ở phần kết luận bài báo, Hồ Chủ tịch viết: “… Những trao đổi về kinh tế và văn hóa giữa các nước ngày càng phát triển là những cống hiến quan trọng cho sự nghiệp củng cố hòa bình và được nhân dân toàn thế giới nhiệt liệt hoan nghênh”.
Đây có lẽ là một quan niệm rất mới ở thời điểm đó, khi mà thương mại thường gắn với chiến tranh vì sự chiếm lĩnh thị trường. Song, Hồ Chủ tịch lại khẳng định một chân lý mới: Kinh tế và văn hóa song hành gắn liền với sự nghiệp củng cố hòa bình!