Hà Giang là địa phương có nguồn lao động tương đối dồi dào. Tuy nhiên, chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới đạt 55,2%; nhiều người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, chưa phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
Yếu tố địa hình, giao thông đi lại khó khăn khiến các doanh nghiệp đến hoạt động tại địa phương còn hạn chế nên người lao động ít có cơ hội tham gia làm việc tại các khu công nghiệp. Đây cũng là tỉnh miền núi biên giới với địa hình phức tạp, giao thông chia cắt, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, trình độ dân trí còn hạn chế. Cơ cấu lao động đã từng bước chuyển dịch theo cơ cấu kinh tế, tăng tỷ trọng lao động trong công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ, giảm tỷ trọng lao động trong nông - lâm - nghiệp nhưng tốc độ chuyển dịch chậm chưa theo kịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Gần 2.300 lao động dân tộc thiểu số ở Hà Giang được vay vốn tạo việc làm |
Nhiều năm qua, nhận thức được tầm quan trọng của công tác giải quyết việc làm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện, tỉnh Hà Giang đã chú trọng công tác giải quyết việc làm. Theo đó, nhiều chính sách đã được ban hành nhằm chuyển dịch cơ cấu việc làm sang các ngành công nghiệp và dịch vụ, tăng cường khả năng giải quyết việc làm và nâng cao hiệu quả vận hành của thị trường lao động. Nhờ vậy, số lao động có việc làm tăng dần theo các năm, trong đó có nhiều lao động là người dân tộc thiểu số vươn lên ổn định cuộc sống.
Một trong những công tác được triển khai hiệu quả ở Hà Giang là Quỹ quốc gia về việc làm. Theo Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Giang, từ năm 2016 đến nay, Quỹ quốc gia về việc làm trên địa bàn đã giúp 5.505 lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm, góp phần quan trọng vào công tác giải quyết việc làm của tỉnh.
Đáng chú ý, để triển khai thực hiện có hiệu quả, Quỹ quốc gia về việc làm, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Giang đã chủ trì và phối hợp với Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh, các ngành liên quan tuyên truyền, phổ biến, xây dựng kế hoạch, tổ chức giải ngân dự án vốn vay tạo việc làm, thực hiện cho vay đúng quy chế, đúng đối tượng; hướng dẫn các huyện, thành phố thực hiện tổ chức triển khai thực hiện cho vay vốn tạo việc làm… Theo đó, tổng nguồn vốn cho vay hỗ trợ tạo việc làm trên địa bàn tỉnh đến thời điểm 30/6/2021 đạt 195,84 tỷ đồng; trong đó, nguồn vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm đạt 78,550 tỷ đồng, nguồn vốn do ngân sách địa phương ủy thác đạt 45,384 tỷ đồng, nguồn vốn Ngân hàng Chính sách xã hội huy động 71,906 tỷ đồng.
Trong đó, tổng doanh số cho vay từ nguồn vốn Quỹ quốc gia về việc làm giai đoạn 2016 - 2021 đạt 180,86 tỷ đồng, tổng dư nợ 76,868 tỷ đồng với tổng số 5.505 dự án cho vay; số lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm là 5.505 lao động, trong đó có 2.279 lao động là người dân tộc thiểu số. Doanh số cho vay từ nguồn vốn do ngân sách địa phương ủy thác đạt 54,115 tỷ đồng, tổng dư nợ 43,423 tỷ đồng với 1.123 dự án cho vay, số lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm là 1.123 lao động, trong đó 581 lao động là người dân tộc thiểu số.
Cho vay từ nguồn vốn huy động của Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 77,238 tỷ đồng, tổng dư nợ 66,897 tỷ đồng với 1.710 dự án, trong đó có 702 dự án của người dân tộc thiểu số với 702 lao động được tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm.
Có thể nói, nguồn vốn tín dụng chính sách cho vay từ Quỹ quốc gia về việc làm trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã góp phần tích cực vào việc duy trì và mở rộng việc làm, làm đảm bảo an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới, cùng chung sức thực hiện các chương trình mục tiêu Quốc gia tại địa phương.
Tính đến hết năm 2020, số lao động có việc làm trên địa bàn tỉnh Hà Giang là 529.363 người, chiếm 99% so tổng lực lượng lao động; trong đó lao động nam chiếm 50,43%, lao động nữ chiếm 49,57%. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu việc làm ngành công nghiệp - xây dựng chiếm 7,56%, tỷ trọng việc làm ngành dịch vụ chiếm 14,92%, ngành nông - lâm nghiệp và thủy sản giảm dần xuống còn chiếm 77,52%. |