Nghị định 20/2017/NĐ-CP về quản lý thuế đối với các giao dịch liên kết của doanh nghiệp, trong đó khống chế mức chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong kỳ... Mục tiêu quan trọng của qui định này là nhằm ngăn ngừa triệt để lợi nhuận thu được sau đấu tranh chống chuyển giá bị các doanh nghiệp vô hiệu hóa thông qua công cụ lãi vay.
Số liệu của Tổng cục Thuế công bố cho thấy, trong 2 năm 2017 và 2018, mỗi năm đã có hơn 11.000 doanh nghiệp thực hiện kê khai có quan hệ liên kết (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 64%). Trong đó, có 6.604 đơn vị phát sinh giao dịch liên kết năm 2017 và 7.785 đơn vị có giao dịch liên kết năm 2018 (tốc độ tăng trưởng 18%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 85%). Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra các đơn vị có giao dịch liên kết từ năm 2017 đến nay, cơ quan thuế đã xử lý thu trên 11.000 tỷ đồng. Trong đó, truy thu, truy hoàn và phạt là trên 2.000 tỷ đồng; giảm khấu trừ bình quân 75 tỷ đồng/năm; giảm lỗ gần 9.000 tỷ đồng và điều chỉnh tăng thu nhập chịu thuế bình quân trên 7.700 tỷ đồng mỗi năm.
Ảnh minh họa |
Ngày 24/6/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung khoản 3, Điều 8, Nghị định số 20/2017/NĐ-CP, qui định tổng chi phí lãi vay được hiểu là, chi phí lãi vay sau khi đã trừ đi lãi tiền gửi và lãi cho vay. Chi phí lãi vay trong kỳ được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) không vượt quá 30% (con số này theo Nghị định 20/2017/NĐ-CP là 20%) của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh trong kỳ, cộng chi phí lãi vay (sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay) phát sinh trong kỳ, cộng chi phí khấu hao phát sinh trong kỳ. Phần chi phí lãi vay không được trừ (vượt mức 30% ở trên) sẽ được chuyển sang kỳ tính thuế tiếp theo, khi xác định tổng chi phí lãi vay được trừ. Thời gian chuyển chi phí lãi vay tính liên tục không quá 05 năm, kể từ năm tiếp sau năm phát sinh chi phí lãi vay không được trừ.
Nghị định 68/2020/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ ngày ký (24/6/2020) và áp dụng từ kỳ tính thuế TNDN năm 2019. Tổng cục Thuế cho biết, đối với các trường hợp đã áp dụng quy định tại Khoản 3, Điều 8, Nghị định 20/2017/NĐ-CP cho kỳ tính thuế TNDN năm 2017, 2018 sẽ được xác định lại theo Nghị định 68/2020/NĐ-CP. Theo đó, người nộp thuế sẽ được khai bổ sung hồ sơ quyết toán thuế TNDN năm 2017, 2018 trước ngày 01/01/2021. Trường hợp sau khi khai bổ sung, số thuế TNDN phải nộp giảm đi thì sẽ được giảm số tiền chậm nộp tương ứng (nếu có). Trường hợp người nộp thuế có số tiền thuế TNDN, tiền chậm nộp đã nộp ngân sách nhà nước lớn hơn số tiền thuế TNDN, tiền chậm nộp được xác định lại thì phần chênh lệch được bù trừ vào số thuế TNDN phải nộp trong năm 2020. Nếu chưa bù trừ hết thì được bù trừ vào số thuế TNDN phải nộp trong các năm tiếp theo, nhưng tối đa không quá 05 năm kể từ năm 2020. Kết thúc thời hạn trên, không xử lý số thuế còn lại chưa bù trừ hết.
Nghị định 68/2020/NĐ-CP cũng quy định trình trình tự, cách thức xác định lại số thuế TNDN phải nộp đối với các trường hợp cơ quan thuế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã thực hiện thanh tra, kiểm tra và đã có kết luận thanh tra, kiểm tra, quyết định xử lý theo Luật Quản lý thuế; quy định biểu mẫu thông tin về quan hệ liên kết và giao dịch liên kết, thay thế cho biểu mẫu đã quy định tại Nghị định 20/2017/NĐ-CP.
Lãnh đạo Tổng cục Thuế cho biết, Nghị định 68/2020/NĐ-CP được Chính phủ ban hành là nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp có giao dịch liên kết, nhất là những doanh nghiệp có vốn mỏng, đặc biệt trong điều kiện dịch bệnh Covid-19 hiện nay vẫn đang diễn biến phức tạp trên toàn cầu, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế thế giới cũng như ở trong nước. Bộ Tài chính đã có văn bản gửi các bộ, ngành, địa phương đề nghị chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thuế để triển khai kịp thời Nghị định 68/2020/NĐ-CP vào thực tiễn, phản hồi vướng mắc (nếu có) về Bộ Tài chính để được giải quyết.