Giảm thời gian giải quyết tranh chấp thương mại để cải thiện môi trường kinh doanh
Pháp luật - Điều tra 25/07/2017 10:18 Theo dõi Congthuong.vn trên
Chia sẻ tại hội thảo “Nâng cao hiệu quả thi hành án để cải thiện môi trường kinh doanh” do Tổng cục Thi hành án dân sự tổ chức mới đây, ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương - cho biết, Chính phủ đang nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh bằng việc mỗi năm ban hành một Nghị quyết 19. Kể từ năm 2014 đến nay có 4 Nghị quyết 19 ra đời.
Cụ thể, Chính phủ yêu cầu các bộ ngành liên qua tập trung cải cách thủ tục tạo điều kiện thuận lợi nhất cho cộng đồng DN. Tại Nghị quyết 19 năm 2015 yêu cầu các cơ quan phối hợp với Tòa án Nhân dân tối cao trong quá trình hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan đến việc tranh chấp thương mại và phá sản DN theo hướng đơn giản hóa thủ tục, quy định. Đồng thời rút ngắn thời gian giải quyết tranh chấp thương mại xuống còn tối đa 200 ngày (hiện là 400 ngày) và 24 tháng (hiện là 60 tháng).
Đến Nghị quyết 19 năm 2017, Chính phủ tiếp tục yêu cầu các Bộ, ngành liên quan cải cách hướng đến các chỉ tiêu về môi trường kinh doanh đạt mức trung bình của nhóm các nước ASEAN 4. Theo đó, thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng tối đa 300 ngày (hiện nay là 400 ngày); thời gian giải quyết thủ tục phá sản DN xuống tối đa còn 30 tháng, thay vì 60 tháng như hiện nay.
Mặc dù vậy, các chuyên gia kinh tế cho rằng, cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam vẫn chưa thực sự hiệu quả bởi rất nhiều nguyên nhân, trong đó việc chậm giải quyết các tranh chấp thương mại cũng là một rào cản không nhỏ.
Luật sư Nguyễn Quang Hưng, chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho hay, thời gian giải quyết tranh chấp hợp đồng ở Việt Nam còn dài (400 ngày), đặc biệt là giai đoạn thụ lý đơn khởi kiện (13% tổng số thời gian) và thi hành án (37%).
Ông Nguyễn Quang Hưng đưa ra một ví dụ về sự chậm trễ trong giải quyết phá sản DN như: Thời gian giải quyết phá sản ở Việt Nam mất 5 năm nhưng Ireland chỉ hết 4 tháng; chi phí tại Việt Nam là 14,5% nhưng ở Nhật Bản chỉ mất 0,6%, tỷ lệ thu hồi là 21,6% còn Na Uy là 92,9%. “Tóm lại hệ số hiệu quả Luật Phá sản ở Việt Nam chỉ được 7,5 điểm trong khi các nước khác đạt mức điểm gấp đôi. Việt Nam còn nhiều dư địa để thực hiện cải cách vì chất lượng tòa án ảnh hưởng đến DN cả về vi mô lẫn vĩ mô”- ông Hưng cho biết.
Theo đại diện đơn vị thi hành án các tỉnh, thành phố, có quá nhiều khó khăn đi kèm cho nên việc thi hành án dân sự chậm chạm làm ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam. Ông Nguyễn Văn Gấu- Cục trưởng Cục Thi hành án tỉnh Long An- dẫn chứng, vụ việc cần giải quyết chênh lệch quá nhiều so với chấp hành viên nên dẫn đến tình trạng quá tải. Trung bình một chấp hành viên phải thực hiện quá nhiều vụ việc trong năm. Long An có 81 chấp hành viên nhưng đến năm 2019-2020 có đến 12 chấp hành viên nghỉ hưu. Còn thư ký thì đếm trên đầu ngón tay.
Để cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đề xuất cần rút ngắn thời gian thi hành án và công khai quá trình thực hiện thi hành án. Xây dựng cơ chế phối hợp, liên thông cho việc xử lý án phí với thụ lý vụ án. Sớm ban hành cơ chế phối hợp giữa cơ quan thi hành án, tòa án, quản tài viên để giải quyết tốt các vụ việc phá sản.