
Giải bài toán nhân lực ngành logistics
Nhân lực thiếu và yếu
Tuy nhiên, theo Báo cáo đào tạo logistics và Quản lý chuỗi cung ứng Việt Nam năm 2024 của Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA), bài toán nhân lực logistics vẫn khó giải khi vừa thiếu về số lượng, vừa hạn chế về chất lượng. Đặc biệt, công tác đào tạo chưa theo kịp nhu cầu thị trường, tạo ra sự chênh lệch lớn giữa “cung” và “cầu” lao động.
Báo cáo của VALOMA cũng chỉ rõ, đến năm 2030, Việt Nam cần khoảng 500.000 nhân lực logistics ở nhiều trình độ khác nhau, trong khi hiện nay hệ thống đào tạo mới đáp ứng được khoảng 40-50% nhu cầu. Mức thiếu hụt không chỉ rơi vào đội ngũ quản lý cấp cao mà còn tập trung ở nhóm nhân viên điều hành, nhân sự có kỹ năng nghiệp vụ quốc tế.

Logistics được coi là "huyết mạch" của nền kinh tế. Ảnh minh họa
Một con số đáng lưu ý khác, cả nước hiện có 65 cơ sở giáo dục đại học, cao đẳng và trung cấp đào tạo chuyên ngành logistics và quản lý chuỗi cung ứng, với khoảng 10.000 sinh viên tốt nghiệp mỗi năm. Song theo đánh giá của doanh nghiệp, chỉ 30 - 40% sinh viên ra trường có thể đáp ứng ngay yêu cầu công việc, số còn lại buộc phải đào tạo lại hoặc bổ sung kỹ năng thực tế.
“Logistics là lĩnh vực thay đổi rất nhanh theo sự phát triển của công nghệ và thương mại toàn cầu. Nếu đào tạo không sát thực tiễn, sinh viên khó có thể đáp ứng được công việc ngay khi ra trường”, báo cáo nêu rõ.
Với vai trò đặc biệt trong nền kinh tế, ngành logistics được dự báo tiếp tục tăng cao. Từ năm 2025 trở đi, ngành được cho rằng sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình từ 14% - 25%/năm, trong đó mức 17% được coi là kịch bản thận trọng, phù hợp với mục tiêu trong Quyết định 221/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025.
Trên cơ sở đó, báo cáo đưa ra 3 kịch bản dự báo nhu cầu nhân lực. Trong đó, kịch bản tăng trưởng thấp (17%), đến năm 2027 thiếu hụt khoảng 894.039 nhân lực, đến năm 2030 thiếu khoảng 1.028.257 nhân lực. Kịch bản tăng trưởng trung bình (22%), đến năm 2027 thiếu hụt khoảng 899.332 nhân lực, đến năm 2030 thiếu khoảng 1.046.261 nhân lực. Kịch bản tăng trưởng cao (25%), đến năm 2027 thiếu hụt khoảng 902.630 nhân lực, đến năm 2030 cần thêm khoảng 1.057.930 nhân lực.
Những con số này cho thấy, dù theo kịch bản nào thì ngành logistics Việt Nam cũng đang đứng trước nguy cơ thiếu hụt trên 1 triệu lao động vào năm 2030. Đặc biệt, sự thiếu hụt tập trung vào các vị trí chuyên sâu như phân tích dữ liệu chuỗi cung ứng, quản trị logistics số, ứng dụng công nghệ AI, cũng như nhân lực tuân thủ chuẩn ESG và thương mại quốc tế.
Giải quyết bài toán thiếu hụt nhân lực thông qua đẩy mạnh công tác đào tạo là hướng đi phổ biến. Tuy nhiên, nhìn vào hiện trạng đào tạo của ngành cũng không mấy khả quan.
Một số hạn chế đã và đang được nhiều chuyên gia chỉ ra, đó là chương trình nặng lý thuyết, thiếu thực hành khiến kỹ năng nghề nghiệp của sinh viên khó được kiểm chứng và trau dồi đầy đủ; đội ngũ giảng viên còn thiếu và yếu; học liệu và công nghệ còn nghèo nàn; sự kết nối với doanh nghiệp còn hạn chế; khung chính sách quản lý chưa đồng bộ.
Một khảo sát trong báo cáo VALOMA năm 2024 cũng cho thấy, 52% doanh nghiệp phản ánh sinh viên thiếu kỹ năng mềm như đàm phán, giao tiếp quốc tế, làm việc nhóm, sử dụng công nghệ số; 47% doanh nghiệp cho rằng sinh viên thiếu kiến thức chuyên sâu về quản lý chuỗi cung ứng toàn cầu, quy định thương mại quốc tế, kỹ năng phân tích dữ liệu.
Đồng bộ giải pháp
Để khắc phục những bất cập và đáp ứng nhu cầu nhân lực khổng lồ đến năm 2030, báo cáo VALOMA đưa ra nhiều đề xuất.
Thứ nhất, mở rộng quy mô và đa dạng hóa hình thức đào tạo. Ngoài hệ chính quy, cần phát triển mạnh các chương trình ngắn hạn, đào tạo tại chỗ cho nhân viên doanh nghiệp, cũng như các khóa học trực tuyến ứng dụng công nghệ.

Đến năm 2030 Việt Nam cần khoảng 500.000 nhân lực logistics ở nhiều trình độ. Ảnh: Thùy Dương
Thứ hai, đẩy mạnh hợp tác công - tư. Doanh nghiệp logistics cần tham gia trực tiếp vào việc thiết kế chương trình, cử chuyên gia giảng dạy, đồng thời tổ chức thực tập có đánh giá năng lực. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ để khuyến khích doanh nghiệp đồng hành.
Thứ ba, chú trọng đào tạo kỹ năng số. Trong thời đại chuyển đổi số, nhân lực logistics phải thành thạo phân tích dữ liệu, quản lý chuỗi cung ứng số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo để dự báo nhu cầu và tối ưu hóa vận hành.
Thứ tư, tăng cường quốc tế hóa. Các chương trình liên kết 2+2, 3+1, bằng kép, cũng như chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế (FIATA, CILT, SCPro…) cần được khuyến khích để nâng chuẩn năng lực và mở rộng cơ hội nghề nghiệp toàn cầu cho sinh viên Việt Nam.
Thứ năm, nâng cao chất lượng giảng viên và học liệu. Cần chính sách đào tạo lại giảng viên, đầu tư phần mềm mô phỏng, trung tâm thực hành logistics và học liệu mở, qua đó tạo ra môi trường đào tạo thực tế hơn.
Thứ sáu, xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp cùng Bộ Công Thương và các hiệp hội ban hành khung kỹ năng nghề quốc gia cho logistics, làm nền tảng chuẩn hóa chương trình đào tạo. Đồng thời, các trung tâm thực hành logistics theo vùng kinh tế trọng điểm cần được quy hoạch và đầu tư.
Có thể thấy, nhu cầu nhân lực logistics tại Việt Nam là rất lớn và cấp bách. Nhưng đào tạo hiện nay chưa theo kịp tốc độ phát triển của ngành, khiến khoảng cách giữa cung và cầu ngày càng giãn rộng.
Nếu không có những giải pháp mạnh mẽ và đồng bộ, “nút thắt” nhân lực logistics sẽ tiếp tục kìm hãm sự phát triển, ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của nền kinh tế. Ngược lại, nếu tháo gỡ đúng hướng, Việt Nam hoàn toàn có cơ hội bứt phá, trở thành trung tâm dịch vụ hậu cần hàng đầu khu vực.
Theo nhiều chuyên gia, cần sự phối hợp nhịp nhàng của ba bên: Nhà nước - nhà trường - doanh nghiệp, nếu thiếu một mắt xích, quá trình đào tạo nhân lực logistics sẽ luôn rơi vào tình trạng cung không gặp cầu.