Giấc mơ Phù Đổng Petrovietnam trong bức tranh toàn cầu - Bài 2: Trên những bảng xếp hạng lần đầu gọi tên Việt Nam

Với đường băng thể chế là Kết luận số 76-KL/TW và Nghị quyết 70 của Bộ Chính trị, Petrovietnam đang bước vào một kỷ nguyên phát triển mới và cần có một tầm nhìn toàn cầu.

Toàn cảnh mới từ tổng kết của Đảng

Toàn cầu hiện nay đang trải qua nhiều biến động trong năng lượng mà trước hết là sự tăng trưởng nhu cầu điện và điện hóa sử dụng cuối. Theo báo cáo “Global Energy Review 2025” của IEA, năm 2024 năng lượng toàn cầu tăng 2,2% so với năm trước, cao hơn mức trung bình 2013 - 2023 là ~1,3%. Đặc biệt, nhu cầu điện tăng mạnh (~4,3%) - một phần do điện hóa trong dân dụng, công nghiệp và thiết bị số (AI, data center…) đóng vai trò ngày càng lớn. Renewables (năng lượng gió + mặt trời + thủy điện + sinh khối…) chiếm phần lớn trong tăng trưởng nguồn cung năng lượng mới (~38% trong nguồn tăng năm 2024). Khí tự nhiên đang được nhìn nhận như “cầu nối” giữa hóa thạch truyền thống và năng lượng sạch hơn.

Petrovietnam trên hành trình chuyển dịch xanh, bền vững.

Petrovietnam trên hành trình chuyển dịch xanh, bền vững.

Những xu hướng này tái định hình bản đồ năng lượng toàn cầu. Quốc gia nào có khung pháp lý rõ ràng, hỗ trợ vốn, kết nối lưới tốt thì triển khai nhanh; ngược lại bị tụt lại.

Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị, báo cáo của Ban Chính sách, chiến lược Trung ương đã phân tích, dự báo, đề cập nhiều nội dung quan trọng cho bức tranh viễn cảnh năng lượng Việt Nam, trong đó rất nhiều vấn đề liên quan tới Petrovietnam.

Đảng ta cũng thẳng thắn khẳng định, xu thế lớn ở thượng nguồn là khai thác dầu khí suy giảm rõ rệt và ngày càng ít phát hiện mỏ mới. Dù công tác điều tra cơ bản, tìm kiếm thăm dò tại vùng nước sâu đạt được nhiều kết quả, với 7 phát hiện dầu khí mới trong giai đoạn 2020 - 2024, đưa 16 mỏ/công trình mới trong nước vào khai thác song xu hướng suy giảm nguồn tài nguyên dễ khai thác, nhất là vùng gần bờ, vẫn là hiện thực không thể né tránh.

Ở trung nguồn, ngành công nghiệp khí đã phát triển và được nhìn nhận là lĩnh vực nền tảng của ngành dầu khí. Song nguồn cung khí thiên nhiên nội địa đã bắt đầu suy giảm, tạo áp lực cung ứng. Hiện nguồn khí trong nước chủ yếu cấp cho sản xuất đạm (tăng 3,2%/năm) và các hộ công nghiệp khác (tăng 2,0%/năm), trong khi khí cấp cho sản xuất điện và cho các hộ công nghiệp có chiều hướng giảm.

Ở hạ nguồn, thu hút đầu tư lọc - hóa dầu theo hướng chế biến sâu được đẩy mạnh, chất lượng sản phẩm xăng dầu từng bước nâng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường song vẫn đòi hỏi sự ổn định nguồn thô và năng lực tài chính vận hành để duy trì tỷ lệ đáp ứng này.

Bức tranh năng lượng tái tạo có tốc độ tăng nhanh ở gió và mặt trời trong những năm gần đây, nhưng đi kèm bất cập về quy hoạch và giá cả. Nhiên liệu sinh học chưa phát triển tương xứng tiềm năng.

Về điều tra đánh giá tài nguyên, đã có các bước tiến quan trọng. Việt Nam đánh giá tiềm năng địa nhiệt theo các địa điểm thủy nhiệt và phát hiện tiềm năng khí, đá phiến, khoáng sản đất hiếm chứa nhiều nguyên tố quan trọng cho công nghiệp công nghệ cao (phục vụ tuabin điện gió, điện mặt trời). Tuy nhiên, triển khai theo định hướng phát triển còn chậm, mới ở bước nghiên cứu bản đồ, chưa có dự án đầu tư hay mô hình ứng dụng tương ứng. Năng lượng sóng biển, thủy triều, hải lưu mới dừng ở điều tra, khảo sát, chưa có mô hình thử nghiệm. Với các nguồn năng lượng mới khác, chỉ bước đầu phát hiện dấu hiệu khí hydrate (băng cháy) ở đáy biển sâu, còn chưa có nghiên cứu phát triển cụ thể…

Trong khi đó, yêu cầu bao trùm được nhấn mạnh là bảo đảm an ninh năng lượng trong bối cảnh tăng trưởng hai con số. Áp lực là không để thiếu điện cho sản xuất, sinh hoạt trong khi dầu khí, than dần cạn kiệt, sản lượng khai thác giảm, dẫn đến nhập khẩu năng lượng tăng, làm gia tăng phụ thuộc vào thị trường quốc tế và rủi ro đi kèm.

Ở hạ tầng, điểm nghẽn “thừa nguồn - thiếu lưới” xuất hiện: nhiều dự án gió, mặt trời đã hoàn thành nhưng không giải tỏa hết công suất; điện khí LNG, gió ngoài khơi chậm tiến độ do pháp lý, tài chính, quy hoạch; cảng biển, kho LNG, đường ống khí chưa phát triển tương xứng. Điện hạt nhân cần nghiên cứu kỹ lưỡng công nghệ, an toàn, hiệu quả kinh tế, môi trường và lộ trình khả thi cùng đồng thuận xã hội trước khi triển khai.

Không để thiếu năng lượng trong bất kỳ tình huống nào; phát triển năng lượng được ưu tiên cao nhất để đáp ứng tăng trưởng hai con số trong kỷ nguyên mới đặt lên vai Petrovietnam nhiệm vụ nặng nề nhất khi là “anh cả” trong 4 tập đoàn năng lượng hàng đầu Việt Nam: PVN, EVN, TKV, Petrolimex.

Nghị quyết 70 đặt lên vai Petrovietnam trọng trách gì?

Với Nghị quyết số 70-NQ/TW ngày 20/8/2025 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn 2045, sứ mệnh đặt lên vai Petrovietnam rất lớn. Nghiên cứu toàn văn nghị quyết, dù không một dòng nào nói trực diện Petrovietnam nhưng các nhiệm vụ trọng yếu nhất đều thuộc về Petrovietnam.

Từ tổng cung năng lượng sơ cấp: 150 - 170 triệu tấn dầu quy đổi (TOE); tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung: 25 - 30% tới các cơ sở lọc dầu đáp ứng ≥70% nhu cầu xăng dầu trong nước; dự trữ xăng dầu tương đương ~90 ngày nhập ròng. Hạ tầng LNG: đủ năng lực nhập khẩu theo nhu cầu (điện khí LNG và các nhu cầu khác), hình thành các trung tâm LNG hài hòa theo vùng miền.

Với lĩnh vực dầu khí truyền thống (thăm dò - khai thác - chế biến) đương nhiên sẽ phải tiếp tục tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng và sản lượng ở vùng nước sâu, xa bờ gắn bảo vệ chủ quyền; nâng hệ số thu hồi, tận thu mỏ nhỏ - khối sót - cận biên. Chiến lược ra nước ngoài: chủ động, hiệu quả trong hợp tác thăm dò khai thác. Đẩy nhanh khai thác các mỏ khí trong nước gắn các chuỗi dự án khí - điện, bảo đảm lợi ích tổng thể quốc gia.

Công nghiệp khí & LNG: ưu tiên đầu tư hạ tầng nhập khẩu - dự trữ - phân phối LNG; xây chính sách giá khí hợp lý, phát triển thị trường khí. Lọc - hóa dầu: thu hút đầu tư chế biến sâu, nâng chất lượng sản phẩm, đáp ứng ≥70% nhu cầu nội địa và hướng tới xuất khẩu, phù hợp lộ trình chuyển dịch năng lượng.

Trong suốt 50 năm qua, ngọn lửa khát vọng không ngừng cháy đã giúp Petrovietnam vươn lên mạnh mẽ, chinh phục những đỉnh cao mới và khẳng định vị thế trụ cột an ninh năng lượng quốc gia.

Trong suốt 50 năm qua, ngọn lửa khát vọng không ngừng cháy đã giúp Petrovietnam vươn lên mạnh mẽ, chinh phục những đỉnh cao mới và khẳng định vị thế trụ cột an ninh năng lượng quốc gia.

Với năng lượng tái tạo & năng lượng mới phải đẩy mạnh khung cơ chế thị trường & tiêu chuẩn.Thúc đẩy mạnh năng lượng tái tạo để thay thế tối đa nhiên liệu hóa thạch; ưu tiên gió - mặt trời tại các vùng lợi thế; thử nghiệm địa nhiệt, sóng biển, thủy triều, hải lưu (ứng dụng - khai thác thử). Hydrogen - amoniac xanh: thí điểm sản xuất - sử dụng, gắn điện gió ngoài khơi/điện mặt trời.

Điện khí/LNG: ưu tiên khí trong nước; gỡ vướng cơ chế giá để đẩy nhanh điện khí/LNG.

Khẩn trương triển khai Ninh Thuận 1 & 2 với đối tác phù hợp, vận hành 2030 - 2035; xây Chương trình điện hạt nhân với quy mô linh hoạt và SMR (lò mô-đun nhỏ)...

Có thể nói, Nghị quyết 70 trao cho Petrovietnam vai trò kiến trúc sư - người thực thi trung tâm của an ninh năng lượng quốc gia trong thập kỷ chuyển dịch: giữ vững trụ cột dầu - khí - lọc hóa dầu, mở rộng LNG - điện khí, bứt phá năng lượng tái tạo (đặc biệt gió ngoài khơi) và năng lượng mới, khởi động điện hạt nhân, đồng thời xây dựng dự trữ chiến lược và hạ tầng độ - chất lượng dự án và hội nhập - kết nối khu vực.

Hướng đi, tầm nhìn của Petrovietnam tới 2030

Đại hội đại biểu Đảng bộ Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) lần thứ IV, nhiệm kỳ 2025 - 2030 vừa qua đã xác định Petrovietnam tập trung phát triển theo ba trụ cột chiến lược: Năng lượng (cốt lõi), Công nghiệp (nền tảng) và Dịch vụ kỹ thuật chất lượng cao (mũi nhọn). Trụ cột Năng lượng đóng vai trò lõi, vừa dẫn dắt, vừa có mối tương hỗ với hai trụ cột còn lại thông qua chuỗi giá trị - chuỗi cung ứng - chuỗi công nghệ.

Trong đó, trụ cột Năng lượng (cốt lõi) giữ vai trò nòng cốt bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia và chuyển dịch thành công từ mô hình “dầu khí truyền thống” sang mô hình năng lượng tích hợp - xanh - số. Nội dung bao trùm toàn bộ chuỗi giá trị dầu khí truyền thống (thăm dò - khai thác - chế biến - phân phối), công nghiệp khí & LNG và năng lượng tái tạo/năng lượng mới gồm: điện hạt nhân, điện gió ngoài khơi, điện mặt trời, hydro xanh, amoniac xanh, nhiên liệu hàng không bền vững (SAF) và các giải pháp lưu trữ năng lượng. Đây là hướng đi tạo động lực tăng trưởng mới và vị thế quốc tế cho Petrovietnam trong thập kỷ chuyển dịch năng lượng.

Trọng tâm triển khai (2025 - 2030):

Dầu khí truyền thống: Duy trì an ninh năng lượng qua tối ưu khai thác, nâng hệ số thu hồi, phát triển mỏ cận biên; chủ động cơ chế hợp tác tại vùng nước sâu xa bờ, chồng lấn; xây dựng chính sách ưu đãi đầu tư cho EOR/EOX và dự án đặc thù (điều kiện địa chất - biển xa).
Khí & LNG: Hoàn thiện hạ tầng khí, mở rộng LNG làm “nhịp cầu” chuyển dịch từ nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng ít phát thải; tối ưu kết nối khí
- điện - đạm - hóa chất.

Năng lượng mới: Tổ chức lộ trình điện hạt nhân (Ninh Thuận 2) định vị như “nguồn nền” carbon thấp dài hạn; phát triển điện gió ngoài khơi quy mô lớn gắn chuỗi nội địa hóa (cột gió, bến bãi, O&M); mở tuyến hydro/amoniac xanh, SAF, lưu trữ năng lượng để hình thành sinh thái công nghiệp xanh trên - dưới bờ. Việc nghiên cứu - chuẩn bị nguồn lực cho Ninh Thuận 2 đã được nêu trong văn kiện.

Trụ cột Công nghiệp (nền tảng): Xây dựng nền công nghiệp năng lượng - phụ trợ giá trị gia tăng cao, tạo nền tảng vật chất - công nghệ cho chuyển dịch năng lượng và nâng hệ số “nội địa hóa” chuỗi giá trị. Trọng tâm là chế biến sâu, hóa dầu hóa chất, vật liệu mới, cơ khí chế tạo thiết bị năng lượng hiện đại; tiên phong công nghệ số, AI, robotic trong sản xuất, và phát triển sản phẩm xanh, bền vững (vật liệu sinh học, tái chế, nanocarbon…) .

Phân hệ ưu tiên:Hóa dầu - hóa chất - phân bón - nhựa: mở rộng cơ cấu sản phẩm, tập trung hóa chất nền - đặc dụng cho năng lượng mới (dầu - khí - LNG - H2/NH3 - pin - SAF).

Vật liệu mới: CNT, graphene, nano-silica… phục vụ thiết bị năng lượng, lưu trữ, hàng hải - ngoài khơi.

Cơ khí chế tạo: giàn khoan, giàn khai thác, cột điện gió, thiết bị LNG/H2/NH3, công trình onshore/offshore - xây chuẩn “nhà chế tạo chủ lực” trong khu vực.

Pin & lưu trữ: nghiên cứu - sản xuất pin lưu trữ, kể cả pin công nghệ hạt nhân (theo định hướng văn kiện) để giải bài toán cân bằng hệ thống khi tỷ trọng năng lượng tái tạo tăng cao.

Trụ cột Dịch vụ kỹ thuật chất lượng cao (mũi nhọn): Nâng tầm thành nhà cung cấp dịch vụ năng lượng hàng đầu khu vực, có năng lực công nghệ - quản trị đạt chuẩn quốc tế, phục vụ cả dự án truyền thống và năng lượng mới. Danh mục gồm EPCI, O&M, logistics cảng biển chuyên dụng, tư vấn khoa học, công nghệ- chuyển đổi số - đào tạo, và các dịch vụ mới liên quan thị trường carbon (tín chỉ CO2). Trụ cột dịch vụ đóng vai trò đòn bẩy tốc độ - chất lượng cho hai trụ cột còn lại, đồng thời là “cửa ngõ” hội nhập chuỗi giá trị năng lượng toàn cầu.

Đối chiếu chỉ tiêu và giải pháp của Petrovietnam với thông lệ khu vực

Đối chiếu chỉ tiêu và giải pháp của Petrovietnam với thông lệ khu vực

Petrovietnam 2030 sẽ ở đâu trên các bảng xếp hạng toàn cầu?

Với định hướng như vậy, khả năng phát triển của Petrovietnam tới đâu? Chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ Tập đoàn lần thứ tư xác định là cao hay thấp khi nêu rõ: Giữ vững vị thế số 1 Việt Nam, lọt vào top 10 khu vực và có tên trong bảng xếp hạng Fortune Global 500. Tổng doanh thu và nộp ngân sách Nhà nước tăng bình quân 10%/năm. Lợi nhuận trước thuế tăng bình quân 4,5 - 5%/năm, năng suất lao động tăng bình quân 5 - 8%/năm.

Những con số nêu trên thể hiện một khát vọng rất lớn nhưng nếu phân tích kỹ, tôi cho rằng, Petrovietnam hoàn toàn có thể đạt được hoặc có thể vươn mình đi xa hơn thế. Đặc biệt, táo bạo nhất ở chỗ lần đầu tiên, trong một nghị quyết đại hội Đảng, một tập đoàn Việt Nam đã đặt mục tiêu lọt bảng xếp hạng Fortune Global 500.

Fortune Global 500 là danh sách thường niên do tạp chí Fortune (Mỹ) công bố, xếp hạng 500 công ty lớn nhất thế giới theo doanh thu hàng năm. Đây là một trong những thước đo quốc tế phổ biến để đánh giá quy mô, tầm ảnh hưởng kinh tế của doanh nghiệp. Cho đến nay, ở Việt Nam, chưa có một doanh nghiệp nào, kể cả khu vực Nhà nước hay tư nhân lọt top này.

Việt Nam hiện mới chỉ có 76 doanh nghiệp lọt vào mảng xếp hạng Fortune Southeast Asia 500 là bản mở rộng riêng dành cho khu vực Đông Nam Á + các nước lân cận, xếp hạng 500 công ty lớn nhất của khu vực. Trong đó, Petrovietnam là doanh nghiệp có thứ hạng cao nhất, xếp vị trí thứ 11. 75 năm doanh nghiệp còn lại ở khoảng cách khá xa như: Petrolimex xếp hạng 26, Vingroup xếp hạng 37, BIDV xếp hạng 43,Hoa Phat Group xếp hạng 62.

 Giấc mơ Phù Đổng Petrovietnam trong bức tranh toàn cầu - Bài 2: Trên những bảng xếp hạng lần đầu gọi tên Việt Nam - 4

Như vậy, Petrovietnam hoàn toàn có thể giữ vững và phát huy vị trí doanh nghiệp số 1 Việt Nam, số 11 trong bảng xếp hạng Fortune Southeast Asia 500, top 5 doanh nghiệp năng lượng hàng đầu Đông Nam Á và có nhiều cơ hội nâng hạng các vị trí này.

Hãy nhìn trong bức tranh toàn cảnh so với các tập đoàn ở trong nước và trong khu vực. Cách đây ít lâu, trong bài viết Từ tháp đôi Petronas Malaysia nghĩ về quốc huy năng lượng Việt Nam, tôi đã phân tích về cơ hội bứt phá từng bị bỏ lỡ của Petrovietnam. Petronas ra đời năm 1974 được trao quyền tối cao trong tất cả hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến, xuất khẩu và hợp tác quốc tế và đã vượt ra ngoài vai trò khai thác tài nguyên, trở thành “bộ não chiến lược” về năng lượng, tài chính, đối ngoại của quốc gia.

Petronas hiện diện tại hơn 50 quốc gia, nắm giữ cổ phần trong hàng chục mỏ dầu - khí lớn từ châu Phi, Trung Đông tới Bắc Mỹ. Nhưng không giống những “ông lớn” dầu khí chỉ tập trung vào khai thác, Petronas còn đóng vai trò định hình chính sách đối ngoại năng lượng, cung cấp chuyên gia, cố vấn và đồng tài trợ cho các cơ chế hợp tác ASEAN, Tổ chức các nước sản xuất dầu khí (OPEC+ observer) và các hiệp định khí hậu. Hiện nay, họ tiếp tục ở trong giai đoạn chiến lược toàn cầu bắt đầu từ năm 2000. Petronas trở thành một trong 10 tập đoàn dầu khí quốc doanh lớn nhất thế giới. Lợi nhuận ổn định: ~20 - 25 tỷ USD/năm, doanh thu ~70 - 80 tỷ USD.

Petrovietnam liên tục tăng trưởng ấn tượng, xác lập nhiều kỷ lục lịch sử.

Petrovietnam liên tục tăng trưởng ấn tượng, xác lập nhiều kỷ lục lịch sử.

Những thông số này lớn hơn rất nhiều so với Petrovietnam và thật đáng tiếc khi từ năm 2015, cách đây tròn 10 năm, Petro​Vietnam từng đặt mục tiêu phải phấn đấu đuổi kịp Petronas của Malaysia về quy mô, trình độ, hệ thống sản phẩm hàng hóa, dịch vụ…

Trong khu vực ASEAN hiện nay, Petronas và PTT vẫn duy trì vị trí số 1 và số 2, với doanh thu và mức đầu tư vào chuyển dịch năng lượng vượt trội. Pertamina có thể gặp thách thức về hiệu quả quản trị và phát thải, trong khi  lại có lợi thế về ROA cao hơn (7% so với 4,8% của Pertamina). Theo các chuyên gia kinh tế, nếu duy trì tốc độ tăng trưởng doanh thu 10 - 12%/năm cùng với đầu tư mạnh hơn vào LNG, lọc hóa dầu và năng lượng tái tạo, Petrovietnam có thể vượt Pertamina để lọt vào Top 3 ASEAN vào giai đoạn 2028 - 2030.

Còn nếu nhìn vào mục tiêu lọt bảng Fortune Global 500. Với doanh thu ước tính khoảng 42 tỷ USD hiện nay, Petrovietnam mới chỉ ở ngưỡng 450 thế giới. Để tiến vào Top 300 - 350, doanh thu cần đạt từ 60 - 70 tỷ USD. Điều này khả thi nếu Petrovietnam khai thác được trọn vẹn tiềm năng từ các chuỗi Lô B - Ô Môn và Cá Voi Xanh, bổ sung nguồn khí quy mô lớn cho điện khí. Các dự án lọc hóa dầu nâng cấp Dung Quất và Nghi Sơn, giúp gia tăng doanh thu chế biến. Điện gió ngoài khơi và LNG nhập khẩu, mở rộng thị phần năng lượng mới.

Bảng so sánh khả năng thăng hạng toàn cầu và khu vực của PVN với đối tác năng lượng.

Bảng so sánh khả năng thăng hạng toàn cầu và khu vực của PVN với đối tác năng lượng.

Như vậy, nếu tận dụng xu thế chuyển dịch năng lượng và đầu tư mạnh mẽ vào công nghệ, Petrovietnam hoàn toàn có triển vọng vượt mốc Top 400 vào khoảng 2027 - 2028 và tiệm cận Top 300 vào giai đoạn 2030.
Nếu tăng trưởng 10%/năm → đến năm 2030 PVN đạt khoảng 67 tỷ USD. Nếu tăng trưởng 12%/năm → đến năm 2030 Petrovietnam đạt khoảng 74 tỷ USD.Với kịch bản 10%/năm → Petrovietnam có thể vươn lên quanh Top 330 thế giới vào năm 2030. Với kịch bản 12%/năm → Petrovietnam có thể tiệm cận Top 300 thế giới.
Như vậy, nếu duy trì tốc độ tăng trưởng hai con số, Petrovietnam không chỉ chắc chắn giữ Top 3 ASEAN mà còn có cơ hội thăng hạng đáng kể trên bản đồ năng lượng toàn cầu.

Trong giai đoạn mới, với tinh thần làm mới những động lực tăng trưởng cũ và tìm ra những động lực tăng trưởng mới, có thể thấy 4 “cụm động lực” mới:

Thứ nhất, LNG - điện khí: sau chuyến LNG đầu tiên cập cảng Thị Vải 7/2023 và hợp đồng 70.000 tấn với QatarEnergy 4/2024, chuỗi nhập - phân phối - phát điện dần hình thành, Nhơn Trạch 3 và 4 chuẩn bị hòa lưới, O Môn 4 đã khởi công.

Thứ hai, điện gió ngoài khơi (OWP): Petrovietnam đang chuyển năng lực offshore từ dầu khí (PTSC, PVTrans) sang gió khơi, với mục tiêu 1-2 GW thí điểm đến năm 2030.

Với hơn 3.200 km bờ biển, Việt Nam sở hữu tiềm năng điện gió ngoài khơi gần 600 GW - một “kho báu” chưa được khai phá. Quy hoạch Điện VIII điều chỉnh đặt mục tiêu 6.000 MW ĐGNK vào năm 2030 và trên 100.000 MW đến năm 2050. Trong hành trình ấy, Petrovietnam nổi lên như lực lượng tiên phong, nhờ kinh nghiệm hàng chục năm làm chủ công nghệ ngoài khơi trong dầu khí.

Cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau.

Cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau.

Điện gió ngoài khơi không chỉ là nguồn điện, mà còn là động lực phát triển công nghiệp phụ trợ: cảng biển, logistic, đóng tàu, luyện kim, chế tạo. Nếu được chốt cơ chế giá (PPA) và hạ tầng truyền tải, chuỗi dự án ĐGNK của Petrovietnam sẽ biến tiềm năng thành sản lượng thực, góp phần quan trọng vào mục tiêu Net Zero 2050 của Việt Nam.

Thứ ba, CCUS/H2: cơ hội mở ra khi Nghị quyết 70 cho phép thí điểm cụm công nghiệp ven biển, hình thành liên minh công nghệ với Petronas, JERA, Exxon, INPEX. Đây là ba mũi nhọn quyết định liệu PVN có biến khát vọng thành hiện thực.

Bảng ba cụm động lực 2025-2030

Bảng ba cụm động lực 2025-2030

Thứ tư, điện hạt nhân: Trụ cột ổn định cho an ninh năng lượng.

Tháng 6/2025, Tập đoàn ký thỏa thuận hợp tác với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) để nghiên cứu, đào tạo nhân lực, chia sẻ công nghệ hạt nhân. Đồng thời, đã làm việc với KEPCO (Hàn Quốc) - một trong những tập đoàn có kinh nghiệm vận hành hạt nhân hàng đầu châu Á - nhằm tìm kiếm khả năng hợp tác công nghệ, tài chính và vận hành.

Triển vọng điện hạt nhân nếu được tham gia từ đầu, với kinh nghiệm quản lý dự án hàng chục tỷ USD, Tập đoàn hoàn toàn có thể trở thành lực lượng nòng cốt trong vận hành nhà máy hạt nhân thế hệ mới, bổ sung nguồn điện ổn định cho Việt Nam.

Trong thần thoại, Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, cầm gươm sắt mà vươn mình. Với Petrovietnam, “ngựa sắt, gươm sắt” chính là Kết luận 76 và Nghị quyết 70. Nền tảng chuỗi giá trị đã có, quyết tâm chính trị đã rõ, thể chế đã mở đường. Nếu đồng bộ được hạ tầng, cơ chế giá và danh mục đột phá, “lời hẹn Phù Đổng” sẽ không dừng ở biểu tượng, mà sẽ trở thành hiện thực. Petrovietnam sẽ trở thành một tập đoàn công nghiệp năng lượng hiện đại, xanh, mạnh, cạnh tranh, đủ sức đối thoại sòng phẳng với các đại gia khu vực và toàn cầu, ghi danh trong danh sách các DN hàng đầu thế giới.  

Nhà báo Nguyễn Văn Minh - Tổng Biên tập Báo Công Thương
Bình luận