Trong tuần đầu tháng 9, giá cước vận chuyển container giao ngay giữa Châu Á và châu Âu giảm mạnh hơn hẳn, với cả tuyến Á-Bắc Âu và châu Á-Địa Trung Hải đều chứng kiến mức giảm hai chữ số. Cụ thể, Chỉ số container thế giới (WCI) của Drewry chứng kiến chặng Thượng Hải-Rotterdam giảm gần 1.000 USD cho mỗi container 40feet, giảm 14% so với tuần cuối tháng 8, trong khi giá XSI châu Á - châu Âu của Xeneta giảm 10%, xuống còn 6.843 USD cho mỗi container 40feet. Trong khi đó, chặng WCI Thượng Hải-Genoa chứng kiến giá cước giao ngay giảm 12%, xuống còn 5.842 USD cho mỗi container 40feet, trong khi Chỉ số Freightos Baltic chặng châu Á-Địa Trung Hải cũng giảm 12%, xuống còn 6.274 USD cho mỗi container 40feet.
Vấn đề chính đối với các hãng vận tải là nhu cầu: Bất chấp tất cả công suất bổ sung được triển khai qua Mũi Hảo Vọng để phục vụ cho các chuyến đi biển bổ sung trên các dịch vụ Á - Âu, nhu cầu dường như đã đạt đỉnh, với cơn sốt đặt chỗ và mức giá cao nhất đi kèm vào tháng 5 và tháng 6, giờ đây chỉ còn là ký ức gần đây.
Một bằng chứng nữa cho quan điểm này xuất hiện khi Container Trade Statistics (CTS) công bố số liệu tháng 7, cho thấy khối lượng hàng tháng bắt đầu giảm. Theo dữ liệu của CTS, các chuyến hàng từ Viễn Đông đến Châu Âu vào tháng 7 đã giảm gần 200.000 teu so với tháng trước - giảm 0,5% so với 1,75 triệu teu được vận chuyển vào tháng 6, xuống còn 1,58 triệu teu vào tháng 7. Có thể nói chắc chắn rằng 'đỉnh' đã đạt được vào cuối tháng 7 đối với khối lượng xuất khẩu không bao gồm Châu Á - điều này sẽ chỉ phản ánh trong dữ liệu hàng đến vào tháng 9/tháng 10.
Và một số khu vực của châu Á cho thấy sự suy giảm thậm chí còn lớn hơn: Khối lượng từ Bắc Á đến Bắc Âu trong tháng 7 giảm 7,6% so với tháng trước và 14,2% so với cùng kỳ năm trước, trong khi khối lượng từ Trung Quốc đến Bắc Âu giảm 3,9% so với tháng trước, mặc dù vẫn tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước.
Dự kiến dữ liệu tháng 8 sẽ cho thấy mức giảm tiếp theo theo tháng và nhu cầu trong tháng 9 có vẻ yếu. Hoạt động đi thuyền trống sẽ tăng lên khi tiến gần đến Tuần lễ Vàng và là hy vọng duy nhất để các hãng vận tải làm chậm tốc độ rơi tự do của giá cước. Ngày 3/9, thành viên của THE Alliance là Hapag-Lloyd đã thông báo rằng nhóm sẽ bỏ trống năm chuyến đi từ Châu Á đến Bắc Âu trong tuần 40 đến 42 và ba chuyến đi từ Châu Á đến Địa Trung Hải trong tuần 40 và 41. Một phần vấn đề đối với các hãng vận tải là thời gian quá cảnh dài hơn qua Mũi Hảo Vọng có nghĩa là hàng hóa trong mùa cao điểm phải được chất lên tàu sớm hơn ở châu Á để đáp ứng thời gian đến và đỉnh điểm này hiện đang sắp kết thúc.
Ảnh minh họa |
Đối với các chuyến hàng đến Bắc Âu và Địa Trung Hải, thời gian đến của hàng hóa trong mùa cao điểm năm nay – tính đến thời gian vận chuyển dài hơn quanh phía nam châu Phi và sự chậm lại của Tuần lễ Vàng sắp tới tại Trung Quốc – đang khép lại, loại bỏ một số áp lực về phía cầu đối với giá cước. Tuy nhiên, giá cước đến Bắc Âu vẫn cao gấp năm lần so với năm 2019; nhưng so với mức đỉnh điểm vào tháng 7, giá cước hiện đã giảm. Giá cước giao ngay trên tuyến xuyên Thái Bình Dương cũng giảm, mặc dù ở mức thấp hơn nhiều – tuyến Thượng Hải-Los Angeles của WCI giảm 3%, kết thúc tuần đầu tháng 9 ở mức 6.030 USD cho mỗi container 40feet, trong khi chỉ số xuyên Thái Bình Dương của XSI cũng giảm 3%, xuống còn 6.482 USD cho mỗi container 40feet.
Một bức tranh tương tự trên tuyến thương mại bờ biển phía đông châu Á-Bắc Mỹ, nơi giá cước tuyến Thượng Hải-New York của WCI giảm 2%, xuống còn 8.451 USD cho mỗi container 40feet.
Cả hai đợt giảm giá trên tuyến thương mại châu Á-Bắc Mỹ đều diễn ra bất chấp mối đe dọa đang rình rập từ cuộc đình công của công nhân bốc xếp tại bờ biển phía đông và bờ biển Vịnh, khiến các nhà phân tích dự báo sẽ có sự gia tăng đột biến về lưu lượng, và do đó là giá cước giao ngay, đến các cảng bờ biển phía tây. Cả hai đợt này dường như đều không xảy ra – trên thực tế, một cuộc chiến giá cước mới nổi dường như đang nổ ra trên tuyến thương mại xuyên Thái Bình Dương hướng đông, với một số hãng vận tải không phải là thành viên liên minh được cho là đang “giảm giá cước” để cải thiện việc sử dụng và đưa ra thêm những dấu hiệu về tình trạng dư thừa công suất đang gia tăng.