Chiều 29/10, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức toạ đàm "Đường sắt tốc độ cao – Thời cơ và thách thức" với sự tham gia của lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước, chuyên gia nhằm phân tích, luận bàn, làm rõ các vấn đề dư luận xã hội quan tâm liên quan đến dự án đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam như: Nguồn vốn, tốc độ, hiệu quả đối với nền kinh tế, xã hội…
Tính cấp thiết của dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam
Phát biểu tại toạ đàm, ông Nguyễn Danh Huy, Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải cho biết, bất kỳ dự án đầu tư nào cũng phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn. Đối với tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam, Bộ Giao thông vận tải đã nghiên cứu trong 18 năm.
Thậm chí, vào năm 2011, dự án cũng đã được trình các cấp có thẩm quyền, tuy nhiên, thời điểm này vẫn còn một số vấn đề gây băn khoăn. Đầu tiên là vấn đề cần nguồn vốn đầu tư lớn cho dự án trong khi quy mô nền kinh tế còn rất khiêm tốn. Vấn đề thứ hai là nợ công của Việt Nam ở thời điểm đó còn rất cao. Vấn đề thứ ba là những kiến giải về tốc độ, công năng của dự án vẫn còn nhiều điểm khúc mắc, chưa rõ ràng.
Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Danh Huy, khẳng định, đây là thời điểm thích hợp để xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam. Ảnh: Dương Tuấn |
Đến thời điểm hiện nay, trong quá trình nghiên cứu, lập 5 quy hoạch chuyên ngành, Bộ Giao thông vận tải nhận thấy, trên hành lang Bắc-Nam, nhu cầu vận tải cả hàng hoá và hành khách lớn nhất. Bởi Việt Nam có đặc điểm địa kinh tế là các khu đô thị lớn, các khu công nghiệp lớn, các khu kinh tế lớn đều tập trung vào khu vục duyên hải. Với đặc điểm địa kinh tế này, Việt Nam có lợi thế vận tải hàng hoá đường biển. Bên cạnh đó, theo nghiên cứu trên thế giới cũng như trong nước thì chi phí vận tải biển vẫn là chi phí rẻ nhất trong vận tải hàng hoá.
"Chúng tôi cũng đã dự báo nhu cầu vận tải và thấy rằng thời điểm này thích hợp, cần thiết để xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam nhằm tái cơ cấu lại thị phần vận tải một cách thích hợp. Qua nghiên cứu, xét về ưu thế thì cự ly trên 1.000 km thích hợp và là ưu thế của hàng không, còn cự ly dưới 1.000 km phải là phương thức vận tải đường sắt.
Vấn đề thứ hai, thời điểm này, quy mô nền kinh tế của chúng ta đã đạt 430 tỷ USD, nợ công cũng đang ở mức rất hợp lý khoảng 37%. Các điều kiện về nguồn lực của chúng ta cơ bản không phải là thách thức lớn.
Vấn đề thứ ba là những trăn trở về mặt kỹ thuật, ví dự như tại sao lại lựa chọn tốc độ 350 km/giờ, hay công năng sử dụng tại sao là vận tải hành khách. Cơ bản là đã kiến giải qua 10 năm nghiên cứu với sự tham gia của nhiều chuyên gia các nước trên thế giới cũng như các đoàn công tác liên ngành tham quan, học tập tại 6 nước có đường sắt tốc độ cao phát triển. Những vấn đề này đến nay đã được kiến giải một cách rõ ràng.
Như vậy, đây là thời điểm thích hợp để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị quyết định trình Quốc hội xem xét, quyết định đầu tư. Đây cũng thực sự là tiền đề, động lực để chúng ta bước vào kỷ nguyên vươn mình, như Tổng Bí thư Tô Lâm nói", Thứ trưởng Nguyễn Danh Huy cho hay.
Cùng nói về tính cấp thiết phải xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, việc đề xuất dự án xây dựng đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam là rất phù hợp, đáp ứng các yêu cầu theo chủ trương của Đảng, của Trung ương và đòi hỏi từ thực tiễn. Việc xây dựng tuyến đường này cũng được kỳ vọng sẽ tạo ra động lực phát triển mới.
"Tôi cho rằng, mấu chốt quan trọng của chúng ta khi làm đề án này là tạo thêm phương thức vận tải thứ 5 và thông qua đó, tối ưu hóa các phương thức vận tải. Như vậy, chúng ta sẽ góp phần tối ưu hóa chi phí vận tải cũng như thời gian và đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của các chủ thể, từ hành khách đến vận tải hàng hóa", ông Phan Đức Hiếu khẳng định.
Tác động đến nhiều ngành, lĩnh vực
Cùng chia sẻ tại toạ đàm, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương một lần nữa khẳng định, ở thời điểm này, Việt Nam đã có đầy đủ cơ sở để triển khai xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam.
"Thứ nhất, nguyện vọng của người dân cũng như sự quyết tâm của hệ thống chính trị đã thể hiện rằng, chúng ta mong muốn có tuyến đường sắt tốc độ cao tiêu chuẩn quốc tế. Chúng ta đã có tuyến đường sắt cũ rồi nhưng tuyến đường sắt này đáp ứng tiêu chuẩn cao hơn và khả năng kết nối tốt hơn so với đường sắt mà chúng ta đang sử dụng.
Thứ hai, chúng ta cũng có đầy đủ cơ sở chính trị và thực tiễn. Về cơ sở chính trị, chúng ta cũng đã có các nghị quyết, kết luận của Trung ương và Bộ Chính trị từ việc xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao từ nay đến năm 2035. Về cơ sở thực tiễn, chúng ta thấy rằng trong bảng quy hoạch tổng thể quốc gia cũng đã đặt vấn đề hoàn thiện kết cấu hạ tầng, trong đó có tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam. Đây là sự cần thiết để có bước đột phá về hạ tầng, tạo tác động tích cực và lan tỏa đến tăng trưởng kinh tế cũng như bảo đảm an sinh xã hội", Thứ trưởng Trần Quốc Phương nói.
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương tại toạ đàm. Ảnh: Dương Tuấn |
Theo Thứ trưởng, qua phân tích sơ bộ, hiện nay Việt Nam đang ở giai đoạn đánh giá tiền khả thi dự án và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng mới có dữ liệu sơ bộ để đánh giá hiệu quả của dự án đối với phát triển kinh tế-xã hội.
Theo đó, có thể chia dự án làm 2 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất là đang trong quá trình xây dựng; giai đoạn thứ hai là đưa vào vận hành. Cả 2 giai đoạn đều tác động đến tăng trưởng kinh tế. Trong đó, giai đoạn 2 có tác động đến tăng trưởng kinh tế-xã hội sau khi dự án đưa vào khai thác, vận hành. Khi dự án đi vào khai thác sẽ làm gia tăng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là giảm chi phí logistic, góp phần đáng kể cho phát triển các ngành công nghiệp, ngành sản xuất kinh doanh có sử dụng đến tuyến đường sắt này.
"Chi tiêu cho đầu tư cũng là một động lực tác động đến tăng trưởng kinh tế. Trong lịch sử đầu tư công của đất nước ta, đây là dự án có quy mô lớn nhất từ trước đến nay, dự kiến tổng chi xấp xỉ 70 tỷ USD. Đây là con số khái toán ở mức tiền khả thi. Mức chi đầu tư này sẽ tác động đến tăng trưởng kinh tế trong suốt thời gian dự án thi công. Qua đánh giá sơ bộ, nếu như số tiền này được đưa vào triển khai từ nay đến năm 2035 thì tác động của đầu tư đường sắt cao tốc độ cao này làm tăng khoảng 0,97 điểm % GDP. Đây là con số hết sức đáng kể, góp phần vào tăng trưởng chung của nền kinh tế", Thứ trưởng nhấn mạnh.
Các khách mời tham gia buổi toạ đàm. Ảnh: Dương Tuấn |
Thứ trưởng Trần Quốc Phương nói thêm, dự án này có tác động trực tiếp đến khoảng 7-8 lĩnh vực.
Thứ nhất tác động đến ngành xây dựng của chúng ta trong cơ cấu GDP bởi vì đây là công trình xây lắp.
Thứ hai là tác động đến các ngành phụ trợ phục vụ cho công trình này, như ngành cung cấp vật liệu cho xây dựng công trình, kể cả các vật liệu thông thường như cát, đá, sỏi hay vật liệu đặc chủng như sắt, thép để làm đường ray hoặc các công trình khác.
Thứ ba, tác động đến các ngành dịch vụ cung cấp cho công trình này như tài chính, ngân hàng hay dịch vụ về huy động vốn…
Thứ tư, tác động lan tỏa đến phát triển đô thị. Tuyến đường này mở ra hơn 20 ga từ Bắc vào Nam. Trong định hướng phát triển tuyến đường sắt này, mỗi ga đều có các khu đô thị đính kèm. Đây cũng là một động lực cho phát triển. Trong tương lai chúng ta xác định phát triển đô thị là một động lực thì đây là một động lực tốt để phát triển kinh tế-xã hội.
Thứ năm, tác động đến các ngành khai thác sau này khi dự án đi vào vận hành, đặc biệt là dịch vụ du lịch.
Thứ sáu, tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Đây là công trình quy mô cực lớn, do vậy để huy động lực lượng tham gia vào xây dựng công trình này sẽ tạo ra công ăn việc làm tương đối lớn.
Ngoài ra, công trình sẽ tác động đến tăng trưởng của ngành vận tải mà chúng ta đang phân tích để hướng tới hiện đại hóa hạ tầng giao thông vận tải, tăng thêm doanh số, năng suất, công suất phục vụ cho giao thông vận tải với một đường sắt mới.
Tại toạ đàm lần này, đại diện các cơ quan nhà nước, chuyên gia và doanh nghiệp cũng đã có thêm nhiều kiến giải về các vấn đề khác liên quan đến việc triển khai dự án đường sắt tốc độ cao Bắc-Nam.
Ngày 28/02/2023, Bộ Chính trị có Kết luận số 49-KL/TW về định hướng phát triển giao thông vận tải đường sắt Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Kết luận số 49-KL/TW) trong đó nhấn mạnh định hướng "xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao hiện đại, đồng bộ, khả thi, hiệu quả, có tầm nhìn chiến lược dài hạn, phát huy được các lợi thế tiềm năng của đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới". Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, Chính phủ, Ban Chỉ đạo xây dựng, thực hiện Đề án chủ trương đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc-Nam đã tiến hành nhiều cuộc họp quan trọng để xem xét các nội dung, trong đó Thường trực Chính phủ đã có 3 cuộc họp và thống nhất với phương án xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao với tốc độ thiết kế 350 km/h, vận tải hành khách là chủ yếu và vận tải hàng hóa khi có nhu cầu; đáp ứng tiêu chí hiện đại, đồng bộ, phù hợp với xu thế phát triển đường sắt tốc độ cao trên thế giới, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh theo yêu cầu, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Trung ương. Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 20/9/2024, trong đó đã xác định thống nhất chủ trương đầu tư toàn tuyến Dự án đường sắt tốc độ cao (350 km/h) trên trục Bắc-Nam. Tuyến đường sắt tốc độ cao 350 km/h dự kiến sẽ hoàn thành năm 2045 sẽ là một bước đột phá lớn không chỉ với hạ tầng giao thông, mở ra không gian phát triển mới mà còn là bước tiến quan trọng, góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam sánh vai với các nước phát triển trên thế giới. |