Châu Âu là một trong ba thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam nhưng đại dịch Covid-19 đã có tác động khá lớn đến nền kinh tế của đất nước trong năm nay và EVFTA có thể giúp giải tỏa một phần áp lực đó. Việt Nam thường xuyên xuất siêu khi giao dịch thương mại với các doanh nghiệp châu Âu trong khi châu Âu là thị trường nhập khẩu lớn thứ hai trên thế giới, chiếm 14,9% tổng nhập khẩu toàn cầu. Việt Nam chỉ chiếm 2% thị trường, nghĩa là tiềm năng tăng trưởng xuất khẩu vẫn còn rất lớn. EVFTA sẽ mang lại cơ hội vô tận cho một loạt các ngành công nghiệp sản xuất và thương mại giữa châu Âu và Việt Nam.
Đơn cử như ngành dệt may, châu Âu là thị trường lớn nhất về tiêu thụ hàng dệt may của Việt Nam (250 tỷ USD). Năm 2019, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang châu Âu đạt 4,3 tỷ USD, chỉ chiếm 2% tổng kim ngạch nhập khẩu của khu vực này. Khi tham gia EVFTA, hàng dệt may Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn so với hàng Trung Quốc về thuế. Hiệp định này nhằm đưa 42,5% số dòng thuế đối với hàng dệt may vào châu Âu giảm về 0% và có hiệu lực ngay trong tháng 8. 47,5% số dòng thuế còn lại sẽ giảm dần về 0% trong 5-7 năm.
Ngay sau khi EVFTA có hiệu lực vào tháng 8 vừa qua, thuế suất 0% đã được áp dụng cho các sản phẩm sau: đồ lót, áo choàng tắm, quần áo ngủ, quần áo mặc trong nhà, đồ bơi, khăn tay, khăn quàng cổ và áo choàng (trừ lụa), găng tay, quần tất, quần áo trẻ em, và áo cánh hoặc áo sơ mi dệt kim cho phụ nữ hoặc bé gái.
Châu Âu cũng là thị trường xuất khẩu quan trọng của ngành da giày Việt Nam, đứng thứ 2 sau Mỹ. Kể từ khi EVFTA có hiệu lực, 37% số dòng thuế đối với giày dép hiện được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu 0%. Trong vòng 3-7 năm, nhiều dòng thuế sẽ giảm dần, mức độ tùy thuộc vào từng mặt hàng.
Về ngành thủy sản, châu Âu là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam sau Mỹ và Nhật Bản. Năm 2019, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang châu Âu đạt 1,25 tỷ đô la Mỹ, chiếm khoảng 15% tổng xuất khẩu thủy sản toàn cầu của khu vực này. Đây là cơ hội vô cùng lớn cho tôm, cá ngừ, cá tra, mực, bạch tuộc, surimi; nhiều mặt hàng xuất khẩu khác cũng được kỳ vọng sẽ phát triển mạnh mẽ trong những năm tới.
Nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm gỗ của châu Âu đã đạt 85 tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Năm 2019, xuất khẩu gỗ và sản phẩm từ gỗ sang châu Âu đạt 847 triệu USD, chiếm khoảng 1% thị trường. Có thể thấy cơ hội thâm nhập thị trường của Việt Nam vẫn còn rất tiềm năng. Xét về thuế, trước đây thuế ở mức thấp 0-6% nhưng kể từ khi EVFTA có hiệu lực, thuế suất đã giảm xuống 0%.
Mặt khác, châu Âu cũng là thị trường nhập khẩu rau quả hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, nhập khẩu từ Việt Nam vào khu vực này chỉ chiếm 0,08%, một lần nữa có thể thấy EVFTA mở ra một cơ hội vô cùng tiềm năng cho lĩnh vực này. Trước đó, thuế suất được ấn định ở mức từ 10-20%, EVFTA đã xóa bỏ toàn bộ thuế đối với 94% dòng thuế trái cây và rau nhập khẩu vào châu Âu từ Việt Nam. Điều này giúp tạo ra lợi thế to lớn trong việc cạnh tranh với các nước châu Á như Thái Lan và Trung Quốc.
Doanh nghiệp cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới để sử dụng áp lực cạnh tranh làm động lực cho đổi mới và phát triển, nhằm mục tiêu đạt được kết quả tích cực trong bối cảnh thương mại quốc tế mới đầy tiềm năng này. Bước khởi đầu tốt là nghiên cứu những nội dung quan trọng của Hiệp định EVFTA và các cam kết của nó về thuế quan và quy tắc xuất xứ. Điều này sẽ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc điều chỉnh quy trình sản xuất và nguyên liệu để đáp ứng các tiêu chí của thỏa thuận.
Doanh nghiệp cũng cần lưu ý và cẩn trọng với những vấn đề như vệ sinh an toàn thực phẩm, để đáp ứng các tiêu chuẩn và quy trình quản lý của châu Âu, đảm bảo các quy tắc xuất xứ khi xuất khẩu vào thị trường này. Các doanh nghiệp phải hiểu rằng châu Âu là một thị trường khó tính và các nhà xuất khẩu Việt Nam phải đảm bảo chất lượng sản phẩm cực kỳ khắt khe. Là một trong những nhà cung cấp dịch vụ đảm bảo chất lượng tốt nhất với hơn 25 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thử nghiệm và kiểm định, HQTS có thể hỗ trợ tốt cho các doanh nghiệp trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm nhằm tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.