Tại Dự thảo, Bộ Tài chính quy định việc áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế chỉ dành cho các đối tượng doanh nghiệp lớn, không cho phép các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ áp dụng. Việc phân loại doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ và siêu nhỏ là nhằm mục đích đưa ra các biện pháp theo hướng tối đa diện doanh nghiệp được hỗ trợ. Tuy nhiên, theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp có vốn dưới 100 tỷ đồng được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong khi đó, theo Luật Chứng khoán hiện hành, doanh nghiệp có mức vốn 10 tỷ đồng đã có thể niêm yết (dự thảo Luật Chứng khoán dự kiến tăng lên 30 tỷ đồng).
![]() |
Cần qui định rõ ràng, cụ thể các đối tượng áp dụng IFRS |
Theo VCCI, trên thực tế, vẫn có thể có một số doanh nghiệp quy mô không lớn nhưng có quan hệ chặt với nước ngoài (như vay vốn, sử dụng thương hiệu, nhượng quyền, trong chuỗi sản xuất…). Những doanh nghiệp này có thể sẽ phải áp dụng IFRS theo yêu cầu của phía đối tác. Quy định tại Dự thảo nêu trên có thể dẫn đến tình trạng những doanh nghiệp quy mô không lớn vừa phải áp dụng IFRS theo yêu cầu của đối tác, vừa phải áp dụng chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS), điều này sẽ gây lãng phí không cần thiết. VCCI cho rằng, cơ quan soạn thảo cần điều chỉnh theo hướng bỏ quy định về việc loại trừ các doanh nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ. Trường hợp các doanh nghiệp này đủ năng lực và tự nguyện áp dụng IFRS thì vẫn được phép và được miễn áp dụng VAS.
Dự thảo quy định việc áp dụng IFRS với 3 nhóm đối tượng: Tự nguyện áp dụng; bắt buộc áp dụng; và được Bộ Tài chính lựa chọn. Tuy nhiên, Đề án không đề cập rõ nhóm đối tượng doanh nghiệp “được Bộ Tài chính lựa chọn” thuộc diện tự nguyện hay bắt buộc áp dụng, lựa chọn thực hiện như thế nào, nếu được chọn nhưng không thuộc diện bắt buộc thì doanh nghiêp có quyền từ chối hay không? Vì vậy, cơ quan soạn thảo cần làm rõ các vấn đề này. Trong trường hợp không xác định được nhóm doanh nghiệp “được Bộ Tài chính lựa chọn” có gì khác với nhóm tự nguyện và bắt buộc hay không, Bộ Tài chính nên bỏ đối tượng này.
Dự thảo cũng phân loại đối tượng thực hiện báo cáo tài chính hợp nhất thành hai trường hợp: Báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo tài chính riêng. Trong nhóm báo cáo tài chính hợp nhất bao gồm các công ty niêm yết và công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết. Theo pháp luật kế toán, báo cáo tài chính hợp nhất áp dụng cho các nhóm công ty được tổ chức theo hình thức tập đoàn, tổng công ty (gồm công ty mẹ, công ty con và các công ty thành viên khác). Trong khi đó, không phải công ty niêm yết, công ty đại chúng nào cũng có công ty con, công ty thành viên. Những công ty này thuộc diện lập báo cáo tài chính riêng chứ không phải là báo cáo tài chính hợp nhất. Dự thảo qui định như vậy có thể dẫn đến cách hiểu là chỉ những công ty niêm yết, công ty đại chúng nào có công ty con thì mới thuộc phạm vi điều chỉnh. Nếu dụng ý chính sách như vậy, cơ quan soạn thảo phải giải trình cho rõ ràng, cụ thể. Trường hợp mọi công ty niêm yết, công ty đại chúng đều thuộc phạm vi điều chỉnh (bất kể được tổ chức theo hình thức nhóm công ty, tập đoàn, tổng công ty hay độc lập) thì cần có quy định cho cả diện đối tượng lập báo có tài chính riêng.