Ngày 11/12, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi) với 436/436 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành.

Quốc hội thông qua Luật Dự trữ quốc gia (sửa đổi)
Trước khi biểu quyết thông qua, Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng trình bày Báo cáo tóm tắt tiếp thu, giải trình dự thảo luật.
Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, về dự trữ chiến lược, Chính phủ xin tiếp thu về nguyên tắc quản lý hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược tại khoản 1 Điều 8 dự thảo Luật để hoàn chỉnh, chỉnh lý thành “1. Hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược phải được quản lý chặt chẽ, an toàn, bí mật theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước; không để thất thoát, lãng phí; chủ động đáp ứng kịp thời mục tiêu, yêu cầu của dự trữ quốc gia".
Bên cạnh đó, chỉnh lý quy định về chính sách của nhà nước về dự trữ quốc gia để quy định tại khoản 6 Điều 4 dự thảo Luật thành: “ 6. Nhà nước ưu tiên đầu tư, nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong lĩnh vực dự trữ quốc gia để hiện đại hóa hoạt động dự trữ quốc gia.”.
Dự thảo Luật đã được hoàn chỉnh, chính lý để quy định về dự trữ chiến lược đối với tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản quan trọng và tài nguyên số, trong đó hàng dự trữ chiến lược được quy định tại khoản 3 Điều 3 là vật tư, thiết bị, hàng hóa; tài nguyên; khoáng sản chiến lược, quan trọng; năng lượng quốc gia; sản phẩm công nghệ cao do Nhà nước quản lý. Đồng thời Điều 7 quy định tiêu chí đối với hàng dự trữ chiến lược và giao Chính phủ quy định chi tiết.
Về xã hội hóa dự trữ quốc gia, Chính phủ đã tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật theo hướng: Đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp tham gia dự trữ chiến lược được ưu đãi về thuế, tín dụng và các chính sách ưu đãi khác theo quy định của Chính phủ trong từng thời kỳ; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các thành phần tham gia dự trữ chiến lược.
Mua, bán hàng dự trữ chiến lược có sử dụng từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn ngoài ngân sách nhà nước được thực hiện theo cơ chế thỏa thuận, tự nguyện, hợp đồng theo quy định của Chính phủ và quy định của pháp luật khác có liên quan.
Đồng thời, mua, bán hàng dự trữ chiến lược từ nguồn hợp pháp của đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp do đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp tự thực hiện, được nhà nước hỗ trợ chi phí quản lý, bảo quản và các khoản hỗ trợ khác theo quy định của Chính phủ.
Về ý kiến của đại biểu Quốc hội liên quan đến cơ chế, danh mục, chiến lược dự trữ chiến lược, Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng nêu rõ, dự thảo Luật đã quy định các nội dung mang tính chất khuyến khích, tạo điều kiện để các đơn vị, doanh nghiệp tham gia dự trữ chiến lược để căn cứ vào tính chất, đặc thù của từng loại hàng hóa đáp ứng mục tiêu dự trữ chiến lược, điều tiết thị trường, Chính phủ quy định các chính sách ưu đãi cho phù hợp với từng thời kỳ, tính chất hàng hóa.
Về tích hợp với Chiến lược phát triển quốc gia, tại khoản 2 Điều 4 dự thảo Luật đã quy định “dự trữ quốc gia được quản lý theo nguyên tắc tập trung, thống nhất; phân công, phân cấp quản lý, điều hành phù hợp với lĩnh vực, địa bàn theo mục tiêu dự trữ quốc gia”.
Về quy định các mặt hàng, sản phẩm công nghệ cao, tình huống đặc biệt, chu kỳ rà soát danh mục và thiết lập hội đồng định giá độc lập, xã hội hóa, cơ quan dự thảo Luật đã đi theo hướng Luật chỉ quy định những nội dung mang tính nguyên tắc và giao cho Chính phủ quy định chi tiết, bảo đảm phù hợp trong từng thời kỳ.
Do vậy, Chính phủ ghi nhận ý kiến của các Đại biểu và giao cơ quan chủ trì soạn thảo sẽ nghiên cứu, tiếp thu ý kiến trong quá trình báo cáo cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản hướng dẫn Luật.
Về ý kiến của đại biểu Quốc hội liên quan đến phạm vi dự trữ chiến lược, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho hay, dự thảo Luật không đặt vấn đề dự trữ ngoại tệ vì đã được thực hiện theo quy định của pháp luật về ngân hàng.
Về phạm vi dự trữ có thể liên quan đến cả khu vực và thế giới, tại khoản 7 Điều 4 dự thảo Luật đã quy định “chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế, trao đổi, chia sẻ nguồn lực trong hoạt động dự trữ quốc gia bảo đảm lợi ích và chủ quyền quốc gia”; về quy định lộ trình cụ thể để đạt mục tiêu dự trữ quốc gia, đây là vấn đề về tổ chức triển khai, không nên quy định cụ thể trong Luật. Việc thí điểm mô hình dự trữ quay vòng sẽ được Chính phủ nghiên cứu khi xây dựng Nghị định để đảm bảo tính khả thi, hiệu quả, tránh lãng phí ngân sách nhà nước.
Về ý kiến của đại biểu Quốc hội liên quan đến nhập, xuất, bảo quản hàng dự trữ quốc gia, hàng dự trữ chiến lược, Chính phủ báo cáo như sau: Dự thảo Luật đã quy định theo hướng công khai các quyết định nhập, xuất, tạm xuất (kể cả trong và ngoài kế hoạch) trên hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về dự trữ quốc gia do Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định, trong đó bao gồm các nhóm thông tin công khai và nhóm thông tin được bảo vệ theo quy định về bảo vệ bí mật nhà nước...
Dự thảo Luật quy định về dự trữ tài nguyên khoáng sản quan trọng là hàng dự trữ chiến lược đã được giải thích từ ngữ tại Điều 3, quy định là mặt hàng được lựa chọn để đưa vào dự trữ chiến lược đáp ứng tiêu chí tại Điều 7 và đảm bảo công tác dự trữ về quy hoạch tổng thể hệ thống kho dự trữ quốc gia tại điểm b khoản 2 Điều 18 quy định “phù hợp với khu vực dự trữ khoáng sản quốc gia” để phù hợp, thống nhất với quy định về pháp luật địa chất và khoáng sản.






