Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)
Thực hiện Thanh Thảo - Huy Hoàng
10/02/2025 11:02

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo.

Chương 6: Những cuộc chiến dầu mỏ: Sự trỗi dậy của Royal Dutch và sự suy vong của đế chế Nga

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo. Hành tung của anh được một nhân viên của Standard Oil ở Singapore nhanh chóng ghi lại và báo cáo về New York: "Một người đàn ông có tên Abrahams, nghe nói là một người cháu của M. Samuel, của… Xanh-đi-ca của nhà Samuel, từ London tới và ngay lập tức đi đến Kutei, nơi có tin đồn rằng nhà Samuel thuê được những khu vực rộng lớn có dầu. Vì Abrahams chính là người đã khởi đầu lĩnh vực kinh doanh dầu lửa trong các bể chứa ở Singapore và Penang, xây dựng nhà máy ở cả hai nơi này nên chuyến đi của anh ta tới Kutei có thể mang một ý nghĩa nào đó".

Quả thật là như vậy. Vì Mark Abrahams được các bác cử tới để khai thác mỏ dầu mà công ty dầu mỏ của nhà Samuel rất cần để duy trì địa vị, thậm chí là để bảo đảm sự sống còn. Trong vụ làm ăn này, Marcus Samuel bị đặt dưới áp lực của sự cưỡng bách vốn có trong lĩnh vực kinh doanh dầu lửa. Bất kỳ ai hoạt động trong ngành này cũng luôn đi tìm sự cân bằng. Khi đầu tư vào bộ phận này của dầu lửa, họ đồng thời phải đầu tư cả vào bộ phận khác để duy trì tính khả thi của khoản đầu tư trước đó. Muốn đầu tư của mình có giá trị, các nhà sản xuất cần thị trường.

Marcus Samuel từng nói: "Sản xuất ra dầu lửa đơn thuần hầu như chỉ đem lại giá trị thấp nhất và địa vị kém hấp dẫn nhất cho thứ nhiên liệu này. Phải tìm được thị trường. Trong khi đó, các hãng lọc dầu lại cần cả nguồn cung và thị trường, vì một nhà máy lọc dầu không được sử dụng thì cũng không hơn gì đống sắt thép phế liệu. Các công ty cần có dầu để mua và bán, nếu không, chắc chắn họ sẽ thua lỗ. Mức độ cấp thiết của những nhu cầu đó thay đổi tùy theo từng thời điểm, tuy nhiên tính cưỡng bách cơ bản thì lại là một hằng số của ngành công nghiệp.

Cuối thập niên 1890, với khoản tiền đầu tư khổng lồ vào tàu chở dầu và hệ thống kho chứa, Marcus Samuel rất cần một nguồn cung cấp dầu lâu dài. Là một thương gia, ông quá hiểu rõ điều này. Hợp đồng dầu lửa với nhà Rothschild sẽ hết hạn vào tháng 10 năm 1900. Liệu ông có thể hy vọng được gia hạn hợp đồng? Dù sao, mối quan hệ giữa ông và nhà Rothschild là một mối quan hệ không bền vững và luôn có khả năng những ông chủ nhà băng này quay sang thỏa thuận với Standard Oil. Ngoài ra, việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu lửa của Nga là rất nguy hiểm.

Samuel phàn nàn, cước phí vận tải ở Nga thay đổi tùy tiện khiến các nguyên lý kinh tế rối tung, biến ngành kinh doanh dầu lửa ở Nga thành một lĩnh vực "giật gấu vá vai" và "đẩy những ai buôn bán dầu lửa với nước này vào một vị thế bất lợi lớn so với các đối thủ Mỹ hùng mạnh". Ngoài ra, những mối nguy hiểm khác như: Sản lượng dầu lửa từ vùng Đông Ấn Hà Lan đang tăng lên, cùng với những quãng đường vận tải ngắn hơn và cước phí vận tải rẻ hơn, khiến Samuel gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng cạnh tranh ở vùng Viễn Đông.

Mặt khác, bất cứ lúc nào, Standard Oil cũng có thể huy động mọi nguồn lực để mở một cuộc chiến tổng lực nhằm hủy diệt Shell. Samuel hiểu một điều rất đơn giản rằng ông cần phải khai thác dầu, phải có dầu thô của chính ông để bảo vệ thị trường và những khoản đầu tư của mình – thực tế là, để bảo đảm sự sống còn của Shell. Tiểu sử của Samuel viết: "Trong cuộc săn tìm dầu lửa, ông chỉ còn thiếu nước hóa điên".

Rừng nhiệt đới

Năm 1895, nhờ những nỗ lực của một kỹ sư khai mỏ người Hà Lan đã có tuổi và bị ám ảnh bởi dầu lửa, người đã dành cả quãng đời trưởng thành của mình trong những khu rừng nhiệt đới ở Đông Ấn, Samuel đã thuê được một mỏ dầu ở khu vực Kutei thuộc Đông Borneo. Mỏ dầu này trải dài hơn 50 dặm dọc theo bờ biển và vươn sâu vào tận trong rừng. Khu rừng rậm rạp và xa xôi này chính là nơi Mark Abrahams được phái tới giám sát công việc khai thác dầu. Anh không hề có kinh nghiệm khoan tìm hay lọc dầu. Tuy anh đã tổ chức việc xây dựng các kho chứa dầu ở Viễn Đông, nhưng điều đó hầu như chẳng giúp được gì trong nhiệm vụ mới và khó khăn hơn nhiều. Sự thiếu kinh nghiệm của Mark Abrahams còn được phản chiếu trên một quy mô lớn hơn trong trường hợp của chính Marcus Samuel. Đó là cái cách ông làm kinh doanh – nỗi ác cảm với công việc tổ chức cũng như phương pháp phân tích và lên kế hoạch có hệ thống, cùng với sự thiếu hụt đội ngũ quản lý và nhân viên có năng lực – đã khiến công việc trong khu rừng nhiệt đới ở Borneo càng thêm khó khăn.

Những con tàu luôn đến sai giờ và chở thiết bị không đúng yêu cầu, thậm chí còn không có cả bảng kê khai hàng hóa. Hàng hóa được dỡ ngay xuống bãi biển, buộc các công nhân phải dừng mọi việc khác để tập hợp và xếp loại các thiết bị. Nhiều thiết bị được chở tới cuối cùng cũng bị vứt lay lắt cho đến khi hoen gỉ trên những bãi cỏ mọc cao. Thậm chí, không có sự điều hành lộn xộn và rời rạc từ London, công việc ở đây cũng đã vô cùng khó khăn. Borneo là một nơi xa xôi với thế giới bên ngoài, còn hơn cả Sumatra. Cảng gần nhất để lấy hàng tiếp tế và thiết bị cách đó một nghìn dặm, ở tận Singapore.

Con đường liên lạc duy nhất với Singapore là thông qua những con tàu lẻ loi đi ngang qua Borneo một hai tuần một lần. Các nhóm công nhân, bị chia ra trên những khu vực khác nhau của mỏ dầu, phải liên tục vật lộn với rừng rậm. Họ cố gắng lắm mới mở được một con đường dài bốn dặm để đi ngang qua khu rừng tới một nơi có dầu rỉ ra được gọi là Điểm Đen, nhưng chỉ trong vòng một vài tuần cây cối mọc rậm trở lại.

Về mặt nhân công, dự án phải phụ thuộc vào những người khuân vác đưa từ Trung Quốc sang vì các nhà tuyển người địa phương không mấy tha thiết với công việc này. Bệnh tật và những trận sốt liên tục tấn công những người làm việc trên các khu khai thác dầu. Thông thường, mỗi khi Abrahams ngồi dậy lúc nửa đêm để viết báo cáo gửi về nhà, chính anh cũng ở trong trạng thái nửa mê sảng vì sốt. Tỷ lệ tử vong của những người làm việc tại nơi này, gồm các công nhân Trung Quốc, các nhà quản lý châu Âu và thợ khoan Canada, rất cao. Một số người chết trên tàu, thậm chí trước khi họ tới nơi. Những mảnh gỗ mà họ cố gắng dùng để xây bất cứ thứ gì, dù là một ngôi nhà, một cây cầu hay một bức tường, đều nhanh chóng mục ruỗng.

undefined

Marcus Samuel.

"Những cơn mưa nhiệt đới nóng, ẩm, làm mục rữa và phá hủy mọi thứ" dai dẳng bám lấy họ. Một lần nữa, những người nhà Samuel ở London và Mark Abrahams ở Borneo bắt đầu trao đổi thư từ với những lời lẽ xỉ vả mạnh mẽ, đầy bão tố, như họ đã làm trong những ngày xây dựng các kho chứa dầu ở vùng Viễn Đông. Bất kể Abrahams làm việc gì và công việc đó khó nhọc và đáng nản đến mức nào, các ông bác của anh cũng không cảm thấy hài lòng. Họ không thể hiểu được thực trong khu rừng nhiệt đới này. Khi Marcus Samuel cằn nhằn rằng những ngôi nhà xây cho người châu Âu làm việc tại mỏ dầu là "những tòa biệt thự" sang trọng, trông giống như "hai khu nghỉ mát", Abrahams giận dữ đáp lại: "Những tòa biệt thự" của họ tạm bợ đến nỗi "một cơn gió mạnh hoặc trận mưa to có thể mang đi cả mái nhà. Những ngôi nhà ở đây chỉ thích hợp để nhốt lợn".

Tuy vậy, bất chấp tất cả, tháng 1 năm 1897, giếng dầu đầu tiên đã được phát hiện, và tới tháng 4 năm 1898, giếng dầu phun đầu tiên được tìm thấy. Tuy nhiên, từ chỗ phát hiện ra dầu đến sản xuất thương mại còn cần thêm nhiều nỗ lực. Ngoài ra, dầu thô Borneo lại có hàm lượng dầu hỏa thấp. Mặc dù vậy, khi chưa được lọc, loại dầu này có thể được dùng làm dầu nhiên liệu. Tính chất này của dầu thô nặng Borneo đã đặt nền móng cho một tầm nhìn mà sau này, Samuel luôn hăng hái theo đuổi. Ông gọi tầm nhìn này là "vai trò to lớn mà dầu lửa, ở dạng hợp lý nhất của nó, có thể nắm giữ, vai trò của năng lượng".

Khi thế kỷ XX đang đến gần, Samuel nhìn về phía trước để tiên toán, và đúng như vậy, trong tương lai vĩ đại của dầu lửa, đây sẽ không chỉ là một nguồn chiếu sáng mà còn là một nguồn năng lượng. Còn Marcus Samuel sẽ trở thành người đề xướng mạnh mẽ nhất việc chuyển tàu bè từ chạy than sang chạy dầu. Sự phát triển có tính chất lịch sử đó đã thật sự nhen nhóm vào những năm 1870, khi ostaki, tên gọi Nga của phần bã thừa trong quá trình lọc hóa lấy dầu hỏa, lần đầu tiên được sử dụng để chạy tàu trên biển Caspi thành công. Chính sự thúc bách về nguồn năng lượng đã làm nảy sinh phát minh này: Nga phải nhập khẩu than từ Anh với chi phí rất cao, còn củi lại rất hiếm hoi tại nhiều vùng của đế quốc này. Sau đó, những con tàu đi trên tuyến đường sắt mới xuyên Siberia bắt đầu sử dụng dầu nhiên liệu do công ty của Samuel cung cấp qua Vladivostok, thay vì dùng than hay củi. Hơn nữa, vào thập niên 1890, Chính phủ Nga cũng khuyến khích sử dụng dầu lửa làm nhiên liệu để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế nói chung.

Tại Anh, trong một số trường hợp, ngành đường sắt cũng chuyển từ dùng than sang dùng dầu nhằm giảm lượng khói thải ra ở các khu vực đô thị hoặc vì những lý do an toàn đặc biệt, như khi chở các thành viên của gia đình hoàng tộc. Tuy nhiên, nhìn chung, than vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn vì trên thực tế, than là cơ sở cho ngành công nghiệp nặng ở Bắc Mỹ và châu Âu phát triển trên quy mô rộng. Than cũng là nhiên liệu cho các đội tàu thương mại và hải quân trên thế giới. Và tầm nhìn của Samuel vấp phải sự phản đối mạnh mẽ ngay trên phân đoạn thị trường mà ông quan tâm nhất – Hải quân Hoàng gia Anh. Ông đã bỏ ra hơn một thập kỷ tìm cách mở cánh cửa vào thị trường này, mà không thu được kết quả nào.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Bình luận

Nghe thêm

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 3)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 3)

Xin kính chào quý vị, trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại đến với kỳ 3 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Mặc dù hoạt động theo những phương thức nhẫn tâm, tham vọng và không kiểm soát của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX song Standard Oil đã mở ra một kỷ nguyên mới, bởi nó đã phát triển thành một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất trên thế giới.

Chương 2: "Kế hoạch của chúng ta": John D. Rockefeller và sự cấu kết trong ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ

Một vụ bán đấu giá kỳ cục đã diễn ra vào một ngày tháng 1 năm 1865 tại Cleveland, bang Ohio. Thành phố ồn ào đã được lợi từ cả cuộc Nội chiến Mỹ lẫn sự bùng nổ của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ tiếp tục thịnh vượng nhờ kỷ nguyên phát triển của nền công nghiệp Mỹ. Sự bất đồng dai dẳng giữa hai nhân vật chính của một trong những công ty lọc dầu thành công nhất thành phố này, về tốc độ mở rộng công việc kinh doanh, đã nổ ra. Maurice Clark, nhân vật thận trọng hơn, đe dọa giải thể công ty và John D. Rockefeller đối thủ của Clark chấp nhận lời đe dọa này. Sau đó, Clark và Rockefeller thỏa thuận tổ chức một cuộc bán đấu giá riêng giữa hai người, ai ra giá cao nhất sẽ có được công ty. Và họ quyết định tiến hành vụ bán đấu giá ngay lập tức, ngay trong văn phòng công ty.
Mức giá ban đầu được đưa ra là 500 đô-la nhưng nhanh chóng tăng lên. Chẳng mấy chốc, Maurice Clark đã ra giá 72.000 đô-la. Rockefeller bình thản đưa ra mức 72.500 đô-la. Clark vung tay lên trời, nói: "Tôi sẽ không trả cao hơn nữa đâu, John. Công ty là của ông". Hai người đàn ông bắt tay từ biệt nhau.
Nửa thế kỷ sau, Rockefeller nói: "Tôi mãi mãi coi đó là ngày khởi đầu cho những thành công tôi đạt được trong đời".
Cái bắt tay đó cũng là dấu hiệu cho sự khởi đầu của ngành công nghiệp dầu lửa hiện đại, đem lại trật tự thay thế cho tình trạng hỗn loạn của sự bùng nổ hoạt động khai thác dầu ở Pennsylvania. Đó là trật tự được Công ty Standard Oil xây dựng nên. Trong quá trình đạt được sự thống trị và kiểm soát toàn bộ lĩnh vực buôn bán dầu lửa trên thế giới, Công ty Standard Oil đã phát triển thành một doanh nghiệp phức hợp có quy mô toàn cầu, kinh doanh loại chất đốt giá rẻ, thứ "ánh sáng mới", tới những vùng xa xôi nhất trên trái đất. Mặc dù hoạt động theo những phương thức nhẫn tâm, tham vọng và không kiểm soát của chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ XIX song Standard Oil đã mở ra một kỷ nguyên mới, bởi nó đã phát triển thành một trong những công ty đa quốc gia đầu tiên và lớn nhất trên thế giới.
"Một người ngăn nắp đến cực đoan"
Đứng đầu Standard Oil chính là người đàn ông trẻ tuổi đã giành chiến thắng trong cuộc bán đấu giá tại Cleveland năm 1865. Khi đó, ở tuổi 26, John D. Rockefeller đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ. Cao và gầy, ông khiến người khác có cảm giác ông là một người cô độc, lầm lì, lãnh đạm và khổ hạnh. Vẻ lặng lẽ khó lay chuyển cùng đôi mắt xanh sắc lạnh trên khuôn mặt đầy góc cạnh với chiếc cằm nhọn của ông làm người ta cảm thấy không thoải mái và e dè. Dường như người ta thấy ông có thể nhìn xuyên thấu họ.

undefined
John D. Rockefeller - chủ tịch kiêm nhà sáng lập Standard Oil Company.

Rockefeller là nhân vật quan trọng nhất trong việc định hình ngành công nghiệp dầu lửa. Người ta cũng có thể nhận định tương tự về vai trò của ông trong lịch sử phát triển của nền công nghiệp Mỹ cũng như sự hình thành của loại hình doanh nghiệp hiện đại. Được ngưỡng mộ như một bậc kỳ tài về quản lý và tổ chức, Rockefeller đồng thời cũng là doanh nhân Mỹ bị căm ghét và nguyền rủa nhiều nhất, một phần do ông quá tàn nhẫn và một phần vì ông quá thành công. Người đời sẽ cảm nhận rõ ràng di sản trường tồn của Rockefeller, xét về ảnh hưởng mạnh mẽ của ông đối với ngành công nghiệp dầu lửa và bản thân chủ nghĩa tư bản, cũng như tác động của khoản từ thiện khổng lồ của ông. Di sản đó còn là những hình ảnh và những tỳ vết mà ông vĩnh viễn khắc vào tâm trí của công chúng.
Rockefeller sinh năm 1839 tại một vùng nông thôn ở New York và qua đời năm 1937, thọ gần 100 tuổi. Cha ông, William Rockefeller, là một nhà buôn gỗ và muối. Sau khi chuyển cả gia đình tới sống ở bang Ohio, nhà buôn này tự xưng là "bác sĩ William Rockefeller" để bán các bài thuốc thảo dược và các loại biệt dược. William Rockefeller thường vắng nhà dài ngày vì ông còn có một bà vợ khác ở Canada.
Tính cách của John D. Rockefeller đã được định hình ngay từ khi còn bé. Ông là một người sùng đạo, chuyên tâm, kiên trì, kỹ tính, hay chú ý đến tiểu tiết, có năng khiếu và niềm đam mê với những con số, đặc biệt là những con số liên quan đến tiền bạc. Lên bảy tuổi, ông đã thực hiện thành công vụ kinh doanh đầu tiên của mình – bán gà. Cha ông dạy các con các kỹ năng buôn bán từ rất sớm. Có người kể lại, William Rockefeller từng khoe rằng: "Tôi buôn bán với bọn trẻ, lừa chúng và đánh chúng bất cứ khi nào có thể. Tôi muốn mài giũa bọn chúng". Khi còn đi học, John D. Rockefeller rất giỏi toán, đặc biệt là môn tính nhẩm.
Dự tính phải đạt được "một điều gì đó lớn lao", khi 16 tuổi, Rockefeller đã đi làm cho một công ty vận tải hàng hóa đường biển ở Cleveland. Năm 1859, ông và Maurice Clark hợp tác mở công ty riêng để buôn bán hàng hóa. Công ty này phát đạt nhờ nhu cầu của cuộc Nội chiến Mỹ và sự mở cửa của khu vực phía Tây. Về sau này, Maurice Clark bực mình khi nhớ lại rằng Rockefeller là người "ngăn nắp đến cực đoan". Khi công ty của hai người phát triển, Rockefeller có thói quen "tự nói chuyện" với chính mình, tự khuyên răn mình, tự cảnh báo mình về những cạm bẫy, về đạo đức cũng như về thực tế. Công ty này buôn lúa mì của Ohio, muối của Michigan và thịt lợn của Illinois. Trong vòng hai năm sau phát hiện của "Đại tá" Drake, Clark và Rockefeller cũng đã buôn bán và kiếm được tiền từ dầu của Pennsylvania.
Dầu lửa và những câu chuyện khác về làm giàu nhanh chóng đã choáng ngợp trí tưởng tượng của các doanh nhân ở Cleveland khi một tuyến đường ray mới được xây dựng vào năm 1863, giúp khu vực này có thể cạnh tranh trong lĩnh vực buôn bán dầu. Hàng loạt nhà máy lọc được xây dựng dọc theo những tuyến đường sắt tới Cleveland. Nhiều nhà máy lọc dầu thiếu vốn nghiêm trọng nhưng nhà máy của Rockefeller và Clark thì hoàn toàn khác. Ban đầu, Rockefeller nghĩ rằng lọc dầu chỉ là một lĩnh vực phụ so với buôn bán hàng hóa. Nhưng chỉ trong một năm, khi nhà máy lọc dầu đem lại khá nhiều lợi nhuận, ông đã thay đổi suy nghĩ. Giờ đây, vào năm 1865, sau khi thành công trong cuộc đấu giá với Clark, Rockefeller, lúc này là một người đàn ông trẻ tuổi khá giàu có, trở thành chủ nhân duy nhất của một công ty sở hữu nhà máy lọc dầu lớn nhất trong số 30 nhà máy lọc dầu ở Cleveland.
Cuộc chơi lớn
Rockefeller giành thắng lợi đầu tiên của mình trong lĩnh vực lọc dầu vào một thời điểm hoàn hảo. Nội chiến Mỹ kết thúc năm 1865 đã mở ra cho nước Mỹ một kỷ nguyên mới của việc mở rộng các hoạt động kinh tế trên quy mô lớn và tốc độ phát triển nhanh chóng, của hoạt động đầu cơ mạnh mẽ và cạnh tranh gay gắt, của hiện tượng cấu kết và độc quyền. Các công ty lớn nổi lên cùng với những tiến bộ kỹ thuật trong nhiều ngành công nghiệp đa dạng như thép, sản xuất đồ hộp và giao thông. Số lượng người nhập cư lớn cùng với việc mở cửa khu vực phía Tây đã tạo ra những thị trường có tốc độ tăng trưởng cao.
Quả thực, trong ba thập kỷ rưỡi cuối thế kỷ XIX, các hoạt động kinh doanh ở Mỹ chuyên nghiệp hơn bất kỳ giai đoạn nào khác trong lịch sử của đất nước này. Và nhiệt huyết, tham vọng, trí tuệ của những con người trẻ tuổi đã bị thỏi nam châm này hút chặt. Những con người này bị cuốn vào thứ mà Rockefeller gọi là "Cuộc chơi lớn" – một cuộc chiến đấu để hoàn thành, để dựng xây và để kiếm tiền, vì chính tiền là một bằng chứng của sự thành đạt. Cuộc chơi được tiến hành với những phát minh và cách tổ chức mới này đã biến nền cộng hòa nông nghiệp vừa bị cuộc nội chiến đẫm máu tàn phá thành cường quốc công nghiệp lớn nhất thế giới.
Trong cơn sốt dầu lửa, Rockefeller, khi đó đang dồn hết tâm trí cho Cuộc chơi lớn, tiếp tục đầu tư cả lợi nhuận lẫn những khoản tiền đi vay vào lĩnh vực lọc dầu. Ông xây thêm nhà máy thứ hai và cần thị trường mới tương xứng với công suất của các nhà máy này. Năm 1866, Rockefeller thành lập thêm một công ty ở New York để quản lý hoạt động buôn bán trên bờ Đại Tây Dương và xuất khẩu dầu lửa. Ông để em trai mình là William phụ trách công ty này. Năm đó, Rockefeller đạt doanh thu hơn 2 triệu đô-la.
Mặc dù thị trường dầu lửa và dầu nhờn đã phát triển, song tốc độ phát triển của nó vẫn không tương xứng với sự tăng trưởng của hoạt động lọc dầu. Có quá nhiều công ty cùng cạnh tranh để giành giật khách hàng. Không phải bỏ ra nhiều vốn hay kỹ năng để xây dựng một nhà máy lọc dầu. Sau này, Rockefeller nhớ lại: "Người người đầu tư vào lọc dầu, từ những người làm nghề giết mổ, thợ làm bánh tới thợ làm nến".
Rockefeller làm việc hết mình để phát triển công ty, bằng cách mở rộng các cơ sở, cố gắng duy trì và nâng cao chất lượng trong khi luôn kiểm soát chi phí. Ông đã tiến những bước đầu tiên trong việc hợp nhất các khâu cung cấp và phân phối vào bên trong doanh nghiệp nhằm mục đích cách ly hoạt động kinh doanh chung khỏi sự biến động của thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Công ty của Rockefeller đã mua những vùng đất rộng lớn trồng loại gỗ sồi trắng để sản xuất thùng chứa dầu riêng. Ngoài ra, công ty còn mua nhiều xe téc riêng và các nhà kho riêng ở New York cũng như những con thuyền riêng trên sông Hudson.
Ngay từ đầu, Rockefeller cũng đặt ra một quy tắc khác mà ông sùng bái, đó là hình thành và duy trì khả năng tài chính mạnh. Cuối thập kỷ 1860, ông xây dựng được nguồn lực tài chính đủ để công ty không còn phải phụ thuộc vào các ngân hàng, các công ty tài chính và các nhà đầu cơ mà ngành đường sắt cũng như các ngành công nghiệp khác vẫn bị lệ thuộc. Tiền bạc không chỉ giúp công ty của Rockefeller tránh được tình trạng vỡ nợ và làm ăn thua lỗ đang đẩy những đối thủ cạnh tranh của ông vào chân tường mà còn tạo cơ hội lợi dụng sự thua lỗ của các đối thủ cạnh tranh để thu thêm lợi nhuận.
Có thể nhận thấy rõ một trong những năng lực lớn của Rockefeller là tầm nhìn về xu hướng của toàn bộ ngành công nghiệp dầu lửa, và kiên quyết chỉ đạo công ty vận động theo xu hướng này. Sau này, ông nói: "Tôi bắt đầu công việc kinh doanh khi còn là một thủ thư. Tôi đã học được sự tôn trọng đối với những con số và sự thật nhỏ nhất". Rockefeller can thiệp vào mọi chi tiết và khía cạnh trong công việc kinh doanh của công ty, thậm chí cả những chi tiết chẳng dễ chịu chút nào, theo đúng nghĩa đen của từ này. Ông giữ một bộ vét cũ rích và luôn mặc bộ vét này bất cứ khi nào đi tới Vùng đất dầu, lặn lội trên những khu vực ngập bùn để tìm mua dầu. Kết quả của hoạt động kinh doanh mà Rockefeller vững chí theo đuổi là, đến nửa sau của thập kỷ 1860, ông sở hữu nhà máy lọc dầu lớn nhất thế giới.
Năm 1867, Rockefeller chiêu nạp một nhân vật trẻ tuổi tên là Henry Flagler. Vai trò của Flagler đối với sự hình thành và phát triển của Standard Oil cũng lớn như ảnh hưởng của Rockefeller. Năm 14 tuổi, Flager là nhân viên bán hàng của một bách hóa tổng hợp và, năm 25 tuổi, ông thành công với một nhà máy nhỏ nấu rượu whiskey ở bang Ohio. Năm 1858, ông bán nhà máy rượu vì những ảnh hưởng của rượu tới mặt đạo đức con người. Sau đó, Flagler nhảy vào lĩnh vực sản xuất muối ở bang Michigan. Tuy nhiên, do cạnh tranh khốc liệt và tình trạng nguồn cung vượt quá cầu, ông lâm vào cảnh phá sản. Sự cố này thức tỉnh ông, một người ban đầu từng kiếm được tiền rất dễ dàng.
Đã trưởng thành nhờ những bài học đắt giá, Flagler là một người luôn lạc quan và có quyết tâm làm lại mọi thứ. Vụ phá sản kia khiến ông có niềm tin sâu sắc vào giá trị của việc "cộng tác" giữa các nhà sản xuất cũng như ác cảm đối với điều mà ông sau này gọi là "cạnh tranh không phanh". Ông kết luận, hợp tác và liên kết là điều cần thiết để giảm thiểu những rủi ro trong thế giới tư bản mong manh. Như sau này Flagler nói, ông còn học được một bài học khác: "Hãy tỉnh táo đánh cược vào sự phát triển của đất nước". Flagler sẵn sàng và hăm hở muốn đặt cược vào nước Mỹ sau Nội chiến.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời

13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời

Xin kính chào quý vị khán thính giả đã đến với chương trình Podcast của Báo Công Thương, với những bài viết, bài báo được chúng tôi tổng hợp, tìm hiểu và được thể hiện lại qua giọng đọc của BTV Thanh Thảo.

Kính thưa quý vị, trong chuyên mục Sách hay 360 ngày hôm nay, chúng tôi xin gửi đến quý khán giả 13 câu chuyện ngắn được sưu tầm với nhan đề: “13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời”. 13 câu chuyện ngắn với những nội dung khác nhau, mang những giá trị, ý nghĩa và sự chiêm nghiệm khác nhau, hi vọng sẽ là món quà nhỏ dành tặng cho quý khán thính giả đang lắng nghe chuyên mục Podcast - Sách hay 360. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

“13 câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống bạn nên đọc một lần trong đời”

Kính thưa quý vị! Đôi khi chúng ta đã quên mất, từng sự việc nhỏ diễn ra hàng ngày đều mang một ý nghĩa nhất định và có những giá trị vô cùng quý báu cho cuộc đời mỗi con người. Cùng lắng những câu chuyện nhỏ ý nghĩa về cuộc sống dưới đây và suy ngẫm nhé.

Câu chuyện số 1: Bài học về sự tự tin

Hôm ấy là ngày đầu tiên tôi học môn Toán với thầy Peter. Vừa vào lớp, thầy cho cả lớp làm bài kiểm tra đầu năm.

Cả lớp ngạc nhiên khi thầy phát cho chúng tôi ba loại đề khác nhau rồi nói:

- Đề thứ nhất gồm những câu hỏi vừa dễ và khó, nếu làm hết các em sẽ được 10 điểm. Đề thứ hai có số điểm cao nhất là 8 với những câu hỏi tương đối dễ. Đề thứ 3 có số điểm tối đa là 6 với những câu hỏi rất dễ. Các em được quyền chọn đề cho mình.

Thầy chỉ cho làm bài trong 15 phút nên tôi đã chọn đề thứ 2 cho chắc ăn. Không chỉ tôi mà các bạn cùng lớp cũng thế, chẳng có ai chọn đề thứ nhất cả.

Một tuần sau, thầy Peter phát bài kiểm tra ra. Cả lớp lại càng ngạc nhiên hơn khi biết ai chọn đề nào thì được tổng số điểm của đề đó, bất kể làm đúng hay sai. Lớp trưởng hỏi thầy:

- Thưa thầy tại sao lại như thế?

Thầy cười rồi nghiêm nghị trả lời:

- Với bài kiểm tra này, thầy chỉ muốn thử thách sự tự tin của lớp mình. Ai trong số các em cũng mơ ước đạt được điểm 10 nhưng ít ai dám vượt qua thử thách để biến ước mơ ấy thành sự thật.

Bài kiểm tra kỳ lạ ấy của thầy Peter đã dạy chúng tôi một bài học: "Có những việc thoạt nhìn tưởng như rất khó khăn nên dễ làm cho chúng ta rút lui ngay từ phút đầu tiên. Nhưng nếu không tự tin đối đầu với thử thách thì chúng ta chẳng biết khả năng của mình đến đâu và cũng khó vươn tới đỉnh điểm của thành công.

Câu chuyện số 2: Chiếc lược tình yêu

Một ngày nọ, người vợ có mái tóc dài bảo chồng hãy mua cho bà một chiếc lược mới để bà chải tóc được gọn gàng hơn. Người chồng đã xin lỗi và từ chối bà. Ông nói rằng mình còn không có đủ tiền để sửa chiếc đồng hồ đeo tay bị hỏng. Người vợ nghe vậy và không nói gì thêm.

Hôm sau người chồng đi làm, ông qua tiệm đồng hồ và bán chiếc đồng hồ của mình với giá rẻ để mua chiếc lược mới cho vợ.

Buổi tối, ông vui vẻ ngồi đợi vợ ở nhà với chiếc lược mới trên tay.

Tuy nhiên, một lúc sau, ông vô cùng sửng sốt khi thấy vợ xuất hiện với một mái tóc ngắn. Thì ra bà đã bán mái tóc của mình đi để mua cho ông chiếc dây đồng hồ mới.

Những giọt nước mắt rơi trên má họ, không phải vì những việc họ làm là vô ích, mà vì tình yêu sâu sắc mà họ dành cho nhau.

Câu chuyện số 3: Câu chuyện về hai hạt lúa

Có hai hạt lúa nọ được giữ lại để làm hạt giống cho vụ sau vì cả hai đều là những hạt lúa tốt, đều to khỏe và chắc mẩy,...

Một hôm, người chủ định đem chúng gieo trên cánh đồng gần đó. Hạt thứ nhất nhủ thầm:
“Dại gì ta phải theo ông chủ ra đồng. Ta không muốn cả thân mình phải nát tan trong đất. Tốt nhất ta hãy giữ lại tất cả chất dinh dưỡng trong lớp vỏ này và tìm một nơi lý tưởng để trú ngụ.” Thế là nó chọn một góc khuất trong kho lúa để lăn vào đó.

Còn hạt lúa thứ hai thì ngày đêm mong được ông chủ mang gieo xuống đất. Nó thật sự sung sướng khi được bắt đầu một cuộc đời mới.

Thời gian trôi qua, hạt lúa thứ nhất bị héo khô nơi góc nhà bởi vì nó chẳng nhận được nước và ánh sáng. Lúc này chất dinh dưỡng chẳng giúp ích được gì - nó chết dần chết mòn. Trong khi đó, hạt lúa thứ hai dù nát tan trong đất nhưng từ thân nó lại mọc lên cây lúa vàng óng, trĩu hạt. Nó lại mang đến cho đời những hạt lúa mới...

Bài học: Nếu tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của bản thân bạn sẽ trải qua một cuộc sống vô nghĩa, đánh mất giá trị của bản thân. Vì vậy, hãy biết dấn thân chấp nhận những thử thách, can đảm bước đi, âm thầm chịu nát tan để sống có ý nghĩa hơn, đóng góp những giá trị hữu ích cho xã hội.

Câu chuyện số 4: Quạ và thiên nga

Một con Quạ, đen như than, nó ganh ghét với một con Thiên Nga, vì bộ lông của Thiên Nga luôn trắng đẹp như bông.

Quạ ngu ngốc một hôm bỗng nảy ra một ý nghĩ rằng nếu nó cứ sống như Thiên Nga, tức là cứ bơi lội và vùng vẫy suốt ngày trong nước, và ăn cây cỏ rong rêu mọc dưới nước, ắt bộ lông nó sẽ trắng ra như bộ lông của Thiên Nga vậy. Thế là Quạ liền bỏ rừng bay về vùng sông hồ và đầm lầy để sống.

Nhưng dù cho nó ra sức tắm giặt suốt ngày này qua ngày khác bộ lông của nó vẫn cứ đen như ngày nào vậy.

Và khi rong rêu trong nước ăn vào không phù hợp với cái dạ dày của nó, nó càng ngày càng gầy đét, và cuối cùng, ngã lăn ra chết.

Bài học: Đừng vì ảo tưởng những thứ mình không thể có mà có những hành động ngu ngốc, đến cuối cùng cùng thiệt thòi sẽ là bản thân mình.

Câu chuyện số 5: Món hời với người nghèo

Một cô gái hỏi ông lão bán trứng: “Bao nhiêu tiền một quả trứng vậy ông?”

Ông lão trả lời: “Một đô hai quả thưa cô”.

Cô gái đáp: “Bán cho tôi một đô bốn quả, nếu không tôi không mua nữa”.

Ông lão: “Được thôi, cô lấy đi, đây là khởi đầu tốt vì có lẽ tôi sẽ chẳng bán được gì trong ngày hôm nay”.

Cô gái lấy trứng rồi hãnh diện bước đi. Cô cảm thấy mình đã trả được một món hời và đến một nhà hàng sang trọng gặp bạn bè. Ở đó, cô cùng các bạn ăn bất cứ thứ gì họ muốn. Tàn tiệc, hóa đơn của của họ lên tới 420 đô la. Cô gái đưa 500 đô cho chủ nhà hàng và bảo không cần trả lại.

Bài học: Sự việc có vẻ giản đơn nhưng lại thật đau khổ đối với ông lão bán trứng. Nhiều người trong chúng ta luôn hào phóng với những người giàu có, mà lại quên đi tình người với những người khốn khổ.

Câu chuyện số 6: Miếng bánh mì cháy

Khi tôi lên 8 hay 9 tuổi gì đó, tôi nhớ thỉnh thoảng mẹ tôi vẫn nướng bánh mì cháy khét. Một tối nọ, mẹ tôi về nhà sau một ngày làm việc dài và bà làm bữa tối cho cha con tôi. Bà dọn ra bàn vài lát bánh mì nướng cháy, không phải cháy xém bình thường mà cháy đen như than. Tôi ngồi nhìn những lát bánh mì và đợi xem có ai nhận ra điều bất thường của chúng và lên tiếng hay không.

Nhưng cha tôi chỉ ăn miếng bánh của ông và hỏi tôi về bài tập cũng như những việc ở trường học như mọi hôm. Tôi không còn nhớ tôi đã nói gì với ông hôm đó, nhưng tôi nhớ đã nghe mẹ tôi xin lỗi ông vì đã làm cháy bánh mì.

Và tôi không bao giờ quên được những gì cha tôi nói với mẹ tôi: “Em à, anh thích bánh mì cháy mà.”

Đêm đó, tôi đến bên chúc cha tôi ngủ ngon và hỏi có phải thực sự ông thích bánh mì cháy hay không. Cha tôi choàng tay qua vai tôi và nói:

“Mẹ con đã làm việc rất vất vả cả ngày và mẹ rất mệt. Một lát bánh mì cháy chẳng thể làm hại ai con ạ, nhưng con biết điều gì thực sự gây tổn thương cho người khác không? Những lời chê bai trách móc cay nghiệt đấy.”

Rồi ông nói tiếp: “Con biết đó, cuộc đời đầy rẫy những thứ không hoàn hảo và những con người không toàn vẹn. Cha cũng khá tệ trong rất nhiều việc, chẳng hạn như cha chẳng thể nhớ được sinh nhật hay ngày kỷ niệm như một số người khác.

Điều mà cha học được qua nhiều năm tháng, đó là học cách chấp nhận sai sót của người khác và chọn cách ủng hộ những khác biệt của họ. Đó là chìa khoá quan trọng nhất để tạo nên một mối quan hệ lành mạnh, trưởng thành và bền vững con ạ.

Cuộc đời rất ngắn ngủ để thức dậy với những hối tiếc và khó chịu. Hãy yêu quý những người cư xử tốt với con, và hãy cảm thông với những người chưa làm được điều đó.”

Bài học: Trong cuộc sống, bạn cần phải biết học cách cảm thông đối với điểm yếu, điểm hạn chế của người khác. Cảm thông với cuộc sống, tính cách của mọi người trong gia đình, bạn bè, vợ chồng… sẽ giúp bạn có một cuộc sống dung hòa xung quanh. Sự cảm thông – bí quyết nuôi dưỡng hạnh phúc gia đình. Câu chuyện này chính là bài học về sự cảm thông giữa người với người.

Câu chuyện số 7: Hành trang lên đường

Có một hòa thượng muốn đi học tập ở nơi xa. Sư thầy hỏi: “Khi nào con đi?”

“Tuần sau con sẽ đi. Đường xa, con đã nhờ người đan vài đôi giày cỏ, sau khi lấy giày con sẽ lên đường.”

Sự thầy trầm ngâm một lát rồi nói: “Nếu không thì thế này, ta sẽ nhờ các tín chúng quyên tặng giày cho con.”

Không biết sư thầy đã nói với biết bao nhiêu người nhưng ngày hôm đó, có đến vài chục người đem giày đến tặng, chất đầy cả một góc căn phòng thiền.

Sáng hôm sau, lại có người mang một chiếc ô đến tặng cho hòa thượng.

Hòa thượng hỏi: “Tại sao tín chủ lại tặng ô?”

“Sư thầy nói rằng hòa thượng chuẩn bị đi xa, trên đường có thể sẽ gặp mưa lớn, sư thầy nói với tôi liệu tôi có thể tặng hòa thượng một chiếc ô?”

Thế nhưng hôm đó, không chỉ có người đó mang ô đến tặng. Đến buổi tối, trong phòng thiền đã chất khoảng 50 chiếc ô các loại.

Giờ học buổi tối kết thúc, sư thầy bước vào phòng thiền của hòa thượng: “Giày cỏ và ô đã đủ chưa?”

“Đủ rồi ạ!” – Hòa thượng chỉ vào đống ô và giày cỏ chất cao như ngọn núi nhỏ trong góc phòng. “Nhiều quá rồi thầy ạ, con không thể mang tất cả đi được.”

“Vậy sao được”, sư thầy nói. “Trời có lúc mưa lúc nắng, có ai tiên liệu được con sẽ phải đi bao xa, phải dầm bao nhiêu lần mưa gió. Nhỡ đâu giày cỏ đi rách hết cả, ô cũng mất, lúc đó con phải làm sao?”

Ngừng một lát, ông lại tiếp tục: “Trên đường đi, chắc chắn con sẽ gặp không ít sông suối, mai ta sẽ có lời nhờ tín chúng quyên thuyền, con hãy mang theo…”

Đến lúc này, vị hòa thượng mới hiểu ra ý đồ của sư phụ. Hòa thượng quỳ rạp xuống đất, nói: “Đệ tử sẽ xuất phát ngay bây giờ và sẽ không mang theo bất cứ thứ gì ạ.”

Bài học: Khi làm bất cứ việc gì, điều quan trọng không phải là những vật ngoài thân đã được chuẩn bị kỹ lưỡng hay chưa mà là ta đã đủ quyết tâm hay chưa?

Có quyết tâm, vạch rõ mục tiêu, tất cả đều không còn là vấn đề, không còn là trở ngại.

Hãy mang trái tim của mình lên đường, mục tiêu dù ở xa bao nhiêu đi chăng nữa nhưng đường ở ngay dưới chân mình, hãy cứ đi rồi sẽ đến. Bạn bước đi dù chỉ một bước, điều đó cũng có nghĩa rằng bạn đã có thu hoạch. Chỉ cần đem theo trái tim lên đường, tất cả những vật ngoài thân khác tự sẽ đủ!

Câu chuyện số 8: Người đàn ông vứt bỏ đôi giày

Chuyến xe lửa đang chạy trên đường cao tốc, Johnny không cẩn thận làm rơi một chiếc giày mới mua ra ngoài cửa sổ, mọi người chung quanh đều cảm thấy tiếc cho ông. Bất ngờ, ông liền ném ngay chiếc giày thứ hai ra ngoài cửa sổ đó. Hành động này của Johnny khiến mọi người sửng sốt, thế là ông bèn từ tốn giải thích: “Chiếc giày này bất luận đắt đỏ như thế nào, đối với tôi mà nói nó đã không còn có ích gì nữa, nếu như có ai có thể nhặt được đôi giày, nói không chừng họ còn có thể mang vừa nó thì sao!”.

Bài học: Những thứ không còn lợi ích với mình đôi khi lại là niềm hạnh phúc vô bờ đối với người khác. Hãy trân trọng mọi thứ mình có và chia sẻ niềm hạnh phúc với mọi người.

Câu chuyện số 9: Cảm ơn bố đã cho con thấy chúng ta nghèo như thế nào!

Một ngày nọ, người bố giàu có dẫn cậu con trai của mình thăm thú một ngôi làng. Người bố muốn cho con trai của mình thấy một người nghèo có thể nghèo đến mức nào. Họ đã dành thời gian tham quan cánh đồng của một gia đình nghèo. Sau khi trở về, người bố hỏi cậu con trai:

– Con thấy chuyến đi thế nào?

– Rất tuyệt bố ạ!

Người bố hỏi:

– Con đã thấy người nghèo sống thế nào chưa?

– Vâng con thấy rồi ạ!

– Vậy nói cho bố nghe, con học được gì từ chuyến đi này?

Cậu bé trả lời: “Chúng ta có 1 con chó, họ có 4. Chúng ta có bể bơi, họ có những con sông. Chúng ta dùng đèn vào ban đêm, còn họ có những ngôi sao. Chúng ta có những bức tường để bảo vệ mình, họ có bạn bè. Chúng ta có TV, còn họ dành thời gian cho gia đình và họ hàng.”

Người bố không nói lên lời. Cậu bé nói thêm: “Cảm ơn bố đã cho con thấy chúng ta nghèo như thế nào!”.

Ý nghĩa câu chuyện: Chúng ta không giàu có chỉ vì có nhiều tiền. Tình yêu, lòng trắc ẩn, tình bạn, những giá trị đích thực, gia đình mới khiến bạn là người thực sự giàu có.

Câu chuyện số 10: Giá trị của hòn đá

Có một học trò hỏi thầy mình rằng:

- Thưa thầy, giá trị của cuộc sống là gì ạ?

Người thầy lấy một hòn đá trao cho người học trò và dặn:

- Con đem hòn đá này ra chợ nhưng không được bán nó đi, chỉ cần để ý xem người ta trả giá bao nhiêu.

Vâng lời thầy, người học trò mang hòn đá ra chợ bán. Mọi người không hiểu tại sao anh lại bán một hòn đá xấu xí như vậy. Ngồi cả ngày, một người bán rong thương tình đã đến hỏi và trả giá hòn đá một đồng. Người học trò mang hòn đá về và than thở:

- Hòn đá xấu xí này chẳng ai thèm mua. Cũng may có ngườihỏi mua với giá một đồng thầy ạ.
Người thầy mỉm cười và nói:

- Tốt lắm, ngày mai con hãy mang hòn đá vào tiệm vàng và bán cho chủ tiệm, nhớ là dù chủ cửa hàng vàng có mua thì cũng không được bán.
Người học trò rất bất ngờ khi chủ tiệm vàng trả giá hòn đá là 500 đồng. Anh háo hức hỏi thầy tại sao lại như vậy. Người thầy cười và nói:

- Ngày mai con hãy đem nó đến chỗ bán đồ cổ. Nhưng tuyệt đối đừng bán nó, chỉ hỏi giá mà thôi.

Làm theo lời thầy dặn, sau một hồi xem xét thì anh vô cùng ngạc nhiên khi chủ hiệu trả giá hòn đá là cả gia sản hiện có. Anh vẫn nhất quyết không bán và vội về kể lại với thầy. Lúc này người thầy mới chậm rãi nói:

- Hòn đá thực chất chính là một khối ngọc cổ quý giá, đáng cả một gia tài, và giá trị cuộc sống cũng giống như hòn đá kia, có người hiểu và có người không hiểu. Với người không hiểu và không thể cảm nhận thì giá trị cuộc sống chẳng đáng một xu, còn với người hiểu thì nó đáng giá cả một gia tài. Hòn đá vẫn vậy, cuộc sống vẫn thế, điều duy nhất tạo nên sự khác biệt là sự hiểu biết của con và cách con nhìn nhận cuộc sống.

Bài học: Thành công hay hạnh phúc là gì? Mỗi người sẽ có định nghĩa và “định giá” khác nhau và chúng ta hãy tôn trọng sự lựa chọn đó. Hãy làm cho đời mình trở nên giá trị theo cách của mình và tự quyết định cuộc sống của bạn.

Câu chuyện số 11: Cái kết cho sự khinh thường

Tiều phu cùng học giả đi chung một chiếc thuyền ở giữa sông. Học giả tự nhận mình hiểu biết sâu rộng nên đề nghị chơi trò đoán chữ cho đỡ nhàm chán, đồng thời giao kèo, nếu mình thua sẽ mất cho tiều phu mười đồng. Ngược lại, tiều phu thua sẽ chỉ mất năm đồng thôi. Học giả coi như mình nhường tiều phu để thể hiện trí tuệ hơn người. Đầu tiên, tiều phu ra câu đố:

“Vật gì ở dưới sông nặng một ngàn cân, nhưng khi lên bờ chỉ còn có mười cân?”.

Học giả vắt óc suy nghĩ vẫn tìm không ra câu trả lời, đành đưa cho tiều phu mười đồng. Sau đó, ông hỏi tiều phu câu trả lời là gì.

“Tôi cũng không biết!“, tiều phu đưa lại cho học giả năm đồng và nói thêm:“Thật ngại quá, tôi kiếm được năm đồng rồi.” Học giả vô cùng sửng sốt.

Bài học: Chẳng ai sinh ra đã hoàn hảo, càng tỏ vẻ khinh thường người khác thì càng chứng tỏ bạn là một người ngu dốt. Chẳng ai dám vỗ ngực nhận mình biết nhiều thứ bởi lẽ còn vô vàn thứ mà chúng ta vẫn chưa được biết đến. Càng tỏ ra thông minh thì sẽ càng bị thông minh hại. Cũng như người tiều phu trong câu chuyện mặc dù không học nhiều như học giả nhưng lại biết cách tính toán để cho mình có thể vẫn kiếm được một chút. Còn về phía học giả đã bị chính sự khinh thường và chấp tiều phu mà mất đi một khoản tiền oan. Đừng khinh thường người khác vì cái kết nhận lại lúc nào cũng rất đau đớn.

Câu chuyện số 12: Con lừa và con la

Lừa và La cùng đi đường. Hai con cùng chở hàng bằng nhau. Lừa càu nhàu là La cũng mang bằng nó nhưng nhận phần thức ăn gấp đôi. La lẳng lặng không nói gì. Được một quãng, Lừa thấm mệt.

Người chủ hàng lấy bớt một phần hàng trên lưng Lừa chuyển sang cho La. La không phàn nàn gì, tiếp tục đi. Được một quãng đường nữa, Lừa càng đuối sức. Chủ hàng lại lấy thêm hàng chuyển sang cho La. Trên lưng Lừa hầu như chẳng còn hàng hoá gì nữa, lẽo đẽo đi sau, vừa đi vừa thở hổn hển. Khi ấy, La quay lại bảo Lừa:

– Này bạn thân mến, tôi đáng được hưởng gấp đôi phần ăn đấy chứ?

Bài học: Trước khi phán xét hay nhận định một vấn đề nào đó, chúng ta không chỉ nhìn vào khởi đầu mà còn phải quan sát cả quá trình và kết thúc.

Câu chuyện số 12: Hoa khôi lớp xấu xí

Các sinh viên nữ công khai bỏ phiếu bầu chọn hoa khôi của lớp, Tiểu Mai là người có dung mạo bình thường nhưng cô đã đứng ra nói mọi người rằng: "Nếu như tôi được chọn, qua vài năm sau, các chị em ngồi ở đây có thể tự hào mà nói với chồng của mình rằng: "Hồi em học đại học, em còn xinh đẹp hơn cả hoa khôi trong lớp cơ đấy!". Kết quả là cô ấy đã được bầu chọn với số phiếu gần như tuyệt đối.

Bài học: Để thuyết phục người khác ủng hộ bạn, điều quan trọng là bạn cần cho người ta biết được nhờ có bạn mà họ mới trở nên ưu tú hơn và có nhiều thành tựu hơn chứ không nhất định là phải chứng minh rằng bạn xuất sắc hơn người khác như thế nào.

Câu chuyện số 13: Ai mới là kẻ ngu?

Một ông thầy giáo mới dạy nhận ra rằng trong lớp có một cậu bé luôn luôn bị chửi là ngu. Trong giờ ra chơi ông hỏi nhóm bạn lý do.

- Thì nó là thằng ngu thật mà thầy. Nếu mà đưa cho nó đồng xu to 5 rúp và đồng xu nhỏ 10 rúp, thì nó sẽ chọn đồng 5 rúp, vì nó nghĩ đồng 5 rúp có kích thước to hơn thì là tốt hơn.

Đây, thầy nhìn nhé. Một bạn trong nhóm giơ 2 đồng xu và cho cậu kia chọn. Và cậu vẫn chọn đồng 5 rúp như trước.

Thầy giáo ngạc nhiên hỏi:

- Sao em lại chọn 5 rúp mà không chọn 10 rúp?

- Thầy nhìn này, đồng 5 rúp to hơn mà.

Tan trường, thầy đến chỗ cậu bé hỏi lại:

- Chẳng nhẽ em không thể hiểu được đồng 5 rúp chỉ to hơn về mặt kích thước, nhưng đồng 10 rúp thì em có thể mua được nhiều thứ hơn?

- Nếu em lấy 10 rúp thì lần sau bọn nó sẽ không cho em nữa... Cậu bé trả lời.

Bài học:

"Ngu mà tỏ ra nguy hiểm thì không có gì phải sợ, đáng sợ là người nguy hiểm mà tỏ ra ngu". Câu này rất đúng với câu chuyện ở trên. Chúng ta cần biết rằng, đừng nhìn bên ngoài xem thường người đối diện với bạn bởi không ai biết được ẩn sau vẻ ngoài đó là một con người như thế nào.

Ngoài những câu chuyện ý nghĩa về cuộc sống ngắn ở trên, các bạn có thể đọc thêm những câu chuyện ý nghĩa về các chủ đề khác như tiền bạc, hạnh phúc, tình bạn...

Thưa quý vị, chương trình Podcast - Sách hay 360 của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Cần làm gì để có nước sạch sử dụng sau ngập lụt?

Cần làm gì để có nước sạch sử dụng sau ngập lụt?

Xin kính chào quý vị khán thính giả đã đến với chương trình Podcast của Báo Công Thương, với những bài viết, bài báo được chúng tôi tổng hợp, tìm hiểu và được thể hiện lại qua giọng đọc của BTV Thanh Thảo.

Thưa quý vị! Bài báo với nhan đề “Cần làm gì để có nước sạch sử dụng sau ngập lụt?” được đăng tải trên Báo Quân đội Nhân dân ngày 21/9/2024 sẽ được chúng tôi chia sẻ trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chị Thanh Mai (TP Yên Bái, tỉnh Yên Bái) hỏi: Sau ngập lụt, các nguồn nước đều bị ô nhiễm. Làm thế nào để người dân có nước sạch sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày?

Về vấn đề này, Cục Quản lý môi trường y tế (Bộ Y tế) cho biết: Sau lũ lụt thường có nguy cơ xảy ra nhiều dịch bệnh do môi trường và nguồn nước bị ô nhiễm dẫn đến vi khuẩn, virus và ký sinh trùng có điều kiện sinh sôi, phát, dẫn đến lan truyền mầm bệnh. Để có nước sạch sử dụng, người dân cần làm sạch giếng khoan, giếng đào, sau đó làm trong, khử trùng nước...

Có nhiều cách làm trong nước, đơn giản nhất là dùng phèn chua hoặc lọc bằng vải sạch. Đối với làm sạch nước bằng phèn chua cần làm theo tỷ lệ: 1g phèn chua cho 20 lít nước. Hòa đều phèn chua với nước cần lọc, chờ khoảng 30 phút cho cặn lắng hết xuống đáy rồi gạn lấy nước trong. Nếu không có phèn chua thì có thể dùng vải sạch để lọc nước. Tốt nhất sử dụng vải cotton, thực hiện thao tác lọc nhiều lần cho đến khi nước trong. Sau đó tiến hành khử trùng bằng các hóa chất như Cloramin B hoặc đun sôi. Khử trùng nước bằng Cloramin B: Cloramin B được đóng gói dưới dạng viên với nhiều hàm lượng khác nhau. Hiện nay phổ biến nhất là viên Cloramin B 0,25g hoặc viên Aquatabs 67mg rất tiện lợi cho khử trùng các thể tích nước nhỏ như chum, vại, lu, xô, chậu hoặc bể chứa nước nhỏ. Một viên Cloramin B 0,25g có thể khử trùng được 25 lít nước, một viên Aquatabs 67mg có thể khử trùng được 20 lít nước trong. Đối với nguồn nước cấp cho tập thể hoặc nhiều hộ gia đình sử dụng: Khử trùng bằng hóa chất bột (thường là Cloramin B loại 27% clo hoạt tính, Clorua vôi) và phải do cán bộ y tế chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện. Nước đã được khử trùng có thể sử dụng cho mục đích sinh hoạt nhưng vẫn phải đun sôi ở nhiệt độ cao thì mới dùng uống được.

Ngoài các biện pháp xử lý nước như trên, hộ gia đình có thể sử dụng thêm thiết bị lọc để xử lý nước. Hiệu quả lọc nước của thiết bị phụ thuộc vào chất lượng nước đầu vào, công nghệ lọc, tình trạng và chất lượng của thiết bị lọc, thời gian sử dụng. Nên sử dụng những thiết bị đã được kiểm định, cấp phép của các cơ quan chức năng, đồng thời tuân thủ hướng dẫn sử dụng của nhà sản xuất để bảo đảm hiệu quả lọc nước. Lưu ý nước đầu vào của các thiết bị lọc nước phải là nước đã được làm trong, không dùng trực tiếp nước bề mặt từ ao hồ, sông suối, kênh rạch... để tránh bít tắc thiết bị lọc.

Xử lý các giếng nước để ăn uống và sinh hoạt: Đối với giếng khơi, dù đã dùng ni lông hoặc nắp bịt miệng giếng, nước trong giếng vẫn bị ô nhiễm rất nặng vì nắp và ni lông chỉ ngăn rác, cặn vào giếng, chứ không ngăn được nước bẩn vào giếng. Với công đoạn làm trong nước, người dân có thể dùng phèn chua với liều lượng 50g/1m3 nước. Nếu nước đục nhiều, có thể cho lượng phèn tối đa tới 100g/1m3 nước. Hòa tan hết lượng phèn cần thiết vào một gàu múc nước hay xô nước, tưới đều dung dịch vào trong lòng giếng nước. Thả gàu múc nước chìm sâu xuống giếng, kéo mạnh gàu lên khoảng 10 lần rồi để yên tối thiểu 30 phút cho cặn lắng hết, sau đó tiếp tục tiến hành khử trùng. Với nước giếng khoan, người dân cần bơm hết nước đục và bơm tiếp tục khoảng 15 phút để loại bỏ nước có khả năng bị nhiễm bẩn. Vét sạch bùn trong giếng, chú ý làm vệ sinh sạch sẽ bơm nước và sàn giếng.

Nếu giếng bị ngập nhưng nước lụt không tràn vào giếng và nước giếng trong thì vẫn phải khử khuẩn trước khi sử dụng. Nếu điều kiện cho phép thì múc cạn và thau rửa, nếu không thì có thể tiến hành khử khuẩn ngay nước trong giếng để sử dụng. Đối với các giếng đã bị ngập lụt thì nhất thiết phải thau rửa và khử khuẩn mới được sử dụng.

Thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.