CôngThương - Đường lối đổi mới nhanh chóng đi vào cuộc sống
Gần 30 năm về trước, Đại hội VI (12/1986) của Đảng đã diễn ra như một Đại hội mở đầu thời kỳ Đổi mới. Với dũng khí tự phê phán, với phương châm "nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật", Đảng đã khởi xướng đường lối đổi mới, lãnh đạo công cuộc đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, vượt thoát tình huống hiểm nghèo khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, Đông Âu sụp đổ và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã. Đổi mới là câu trả lời cho tồn tại và phát triển của Việt Nam. Đổi mới thể hiện lập trường kiên định của Đảng trong việc lựa chọn con đường phát triển của Việt Nam.
Đổi mới đã đón kịp thời cơ và dũng cảm vượt qua thách thức của phát triển; thống nhất giữa ý Đảng với lòng dân và phép nước; đáp ứng đúng sự hối thúc của thực tiễn, mệnh lệnh của cuộc sống và nguyện vọng của nhân dân từ những nhu cầu bức xúc và lợi ích thường nhật, thiết thân hằng ngày. Sự cộng hưởng giữa trách nhiệm và quyết tâm chính trị của Đảng với ý nguyện thiết tha của lòng dân đã làm cho tư tưởng, đường lối đổi mới nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo nên hiệu ứng xã hội rộng lớn chưa từng có, lôi cuốn và thúc đẩy mọi cấp, mọi ngành, mọi người nhập cuộc với đổi mới, hành động vì đổi mới.
Nhờ có đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng, đã vượt qua tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đã tạo nên Thế và Lực của Việt Nam như ngày nay. Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế tăng trưởng, từng bước thực hiện được tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện và nâng cao dần mức sống của người dân, củng cố sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và đồng thuận để hướng tới phát triển bền vững và hiện đại hóa đất nước - Đó là thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đổi mới. Chặng đường gần 30 năm đổi mới mà toàn Đảng, toàn dân đã đi qua là thực tiễn sinh động và quý giá cho ta niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiềm năng sáng tạo của nhân dân và nguồn sức mạnh nội sinh của dân tộc Việt Nam.
Định hình "10 chữ vàng" trong hệ mục tiêu của đổi mới: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh" là kết quả của đổi mới tư duy lý luận của Đảng, từ thực tiễn mà kiểm nghiệm lý luận, lại cũng từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, phát triển lý luận để nhận thức ngày một rõ hơn CNXH Việt Nam và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đó là sự trưởng thành về năng lực lãnh đạo và bản lĩnh cầm quyền của Đảng. Thực tiễn đổi mới đã cung cấp cho Đảng và Nhân dân ta những tri thức lý luận và kinh nghiệm mới, đã tăng cường tiềm lực trí tuệ, tư tưởng của Đảng.
Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức mạnh của lòng dân
Thực tiễn và thành tựu của đổi mới cũng đem lại cho Đảng và Nhân dân ta điều xác tín quan trọng là, sức mạnh của Đảng và sự bền vững của chế độ bắt nguồn từ sức mạnh của lòng dân, của mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với dân, giữa dân với Đảng đồng thời là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp hữu cơ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Đúng quy luật, thuận lòng dân và hợp thời đại – đó là bí quyết của thành công, là đảm bảo chắc chắn của thắng lợi theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh mà Đảng ta đã không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo.
Dân là gốc của Nước nên dân giàu thì nước mạnh. Đảng vì dân, vì nước nên dân tin Đảng, theo Đảng, ủng hộ và bảo vệ Đảng, bởi dân hiểu rõ, Đảng là Đảng của mình.
Có được uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong lòng dân, trong sự gắn bó đoàn kết của toàn dân tộc và sự đồng thuận xã hội như vậy là niềm tự hào chính đáng của Đảng về truyền thống vẻ vang, về những giá trị cao quý của mình được nhân dân và dân tộc tôn vinh.
Sâu xa hơn nữa, càng tự hào bao nhiêu Đảng càng phải tự ý thức rõ ràng và đầy đủ bấy nhiêu về cội nguồn sâu xa của sức mạnh, sức sống của Đảng chính là Dân, từ nhân dân và dân tộc mà sinh ra, Dân tộc và Nhân dân đã nuôi dưỡng, bảo vệ và thúc đẩy Đảng của mình, sao cho Đảng luôn luôn xứng đáng với niềm tin, sự ủy thác và kỳ vọng của dân. Mối quan hệ giữa Đảng với dân, giữa giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, trong hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của Việt Nam ngay từ những năm 20, 30 của thế kỷ XX, khi Đảng ra đời đã mang một ý vị và sắc thái đặc biệt, là tính đặc thù nổi bật của Đảng ta so với nhiều Đảng Cộng sản khác trên thế giới.
Hồ Chí Minh đã khái quát quy luật ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam như sau: Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lenin với phong trào công nhân và với phong trào yêu nước của dân tộc. Vậy là, từ trong bản chất làm nên sức mạnh của mình, giai cấp công nhân Việt Nam với Đảng là đội tiên phong ngay từ đầu đã gắn bó mật thiết với nhân dân, với dân tộc.
Bởi thế, dù số lượng ít, nền công nghiệp thực sự của dân tộc chưa sản sinh, chỉ có công nghiệp do tư bản thực dân du nhập vào với mục đích khai thác thuộc địa… vậy mà giai cấp công nhân nước ta thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản vẫn đảm trách xuất sắc vai trò lãnh đạo và thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.
Chính truyền thống lịch sử của dân tộc, lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân đã làm nên sức mạnh của Đảng, đã trở thành nguồn sống, tạo sinh lực, cốt cách và dũng khí cho Đảng. Một dân tộc anh hùng, bất khuất, có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với bản sắc văn hóa và văn hiến độc đáo làm nên diện mạo trí tuệ, tinh thần, đạo đức của dân tộc Việt Nam đã nuôi dưỡng, đào luyện nên giai cấp công nhân Việt Nam, đã kết tinh những phẩm giá tốt đẹp ưu tú nhất của giai cấp, của dân tộc vào trong Đảng Cộng sản Việt Nam.
Và Nhân dân ta, một khối quần chúng nhân dân đã từng thấm thía tình cảnh nô lệ, nỗi nhục mất nước nên khao khát độc lập tự do, thà chết vinh còn hơn sống nhục, thà hy sinh tất cả quyết không chịu làm nô lệ… Một dân tộc, một khối quần chúng nhân dân như thế không chỉ dồi dào sức sống, sức sáng tạo, dũng cảm, mưu trí mà còn thủy chung tình nghĩa, vị tha nhân ái, bao dung độ lượng, trọng chân lý và đạo lý, đề cao phẩm giá, danh dự, khí tiết sống ở đời và làm người được thế giới ngợi ca là quý hơn thỏi vàng dòng. Có một cơ sở xã hội như thế, một cội nguồn sức mạnh như thế, Đảng Cộng sản Việt Nam chịu ơn sâu nghĩa nặng với dân tộc và nhân dân của mình.
Ý thức và tự ý thức về điều hệ trọng đó, Đảng và mỗi tổ chức Đảng, mỗi cán bộ đảng viên sẽ luôn luôn thường trực được trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của mình với dân, với nước. Điều này đặc biệt cần thiết và quan trọng khi Đảng cầm quyền, nhất là trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, lại cầm quyền trong môi trường kinh tế thị trường, trong xu thế phát triển kinh tế tri thức, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thời cơ, vận hội phát triển lớn bao nhiêu thì thách thức và nguy cơ cũng nghiệt ngã bấy nhiêu. Những cám dỗ của danh và lợi, của chức quyền, địa vị, của tiêu dùng và hưởng lạc luôn bày ra trước mắt mỗi người. Nếu không đủ nghị lực và đức tin, không được đảm bảo bởi đạo đức tinh thần trong sáng, cao thượng, không được thúc đẩy bởi danh dự, lương tâm, lòng tự trọng và liêm sỉ thì như Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo sẽ dẫn tới hư hỏng, xấu xa, tội lỗi.
Đã từng có không ít những trường hợp như thế, từ cá nhân đến tổ chức, với những cái giá phải trả đau đớn. Suy đến cùng là do chủ nghĩa cá nhân, là "giặc nội xâm", "giặc ở trong lòng dân". Tình trạng suy thoái của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, những cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, kể cả ở cấp cao về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống mà NQTW4, Khóa XI về "một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay" nêu ra là một tình huống điển hình, nghiêm trọng. Nó đe dọa sự tồn vong của chế độ và sinh mệnh của Đảng.
Phải làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, thực sự là đạo đức, là văn minh, như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh bằng một nỗ lực đầy trách nhiệm, bằng hành động quyết liệt trong chỉnh đốn Đảng, quyết tâm lấy lại niềm tin của đảng viên và nhân dân với Đảng – Đó là mệnh lệnh của cuộc sống với Đảng vào lúc này. Đó cũng là nguyện vọng thiết tha, là đòi hỏi bức xúc của nhân dân với Đảng.
Mọi hành động cũng chỉ vì dân, hướng đích tới dân
Không có dân thì Đảng không có lực lượng, cách mạng không có sức mạnh. Không có Đảng thì dân không có người lãnh đạo. Để xứng đáng là người lãnh đạo của dân, đảng và mỗi đảng viên phải vì dân mà tận tụy trong mỗi việc làm, vì dân mà nêu cao đức tính cần kiệm liêm chính, chí công vô tư đoàn kết và thanh khiết, phụng công thủ pháp, dĩ công vi thượng theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Quy luật của muôn đời là vậy, có dân thì có tất cả, mất dân thì mất hết. Dựa vào dân mà xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trọng dân, trọng pháp, gần dân, học dân, nghe dân, tin dân để thương dân và vì dân. Đó là đạo lý, đạo nghĩa với dân, đó cũng là trách nhiệm đạo đức, chính trị, pháp lý đối với dân của Đảng và mỗi đảng viên. Đảng vĩ đại bởi Đảng quang minh chính đại. Đảng vĩ đại bởi Đảng chân chính cách mạng, trong sự cảm nhận, đánh giá trực tiếp của dân, trong sự giúp đỡ, kiểm tra, phê bình của dân với tất cả niềm tin và tình thương yêu của dân với Đảng, vừa nghiêm khắc vừa bao dung, tin tưởng, hy vọng và tự hào về Đảng của mình.
84 năm trong lịch sử quang vinh của Đảng với gần 70 năm Đảng liên tục cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội để Việt Nam có một cơ đồ, sự nghiệp như hiện nay. Khi làm nên cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng mới có gần 5.000 đảng viên trong sức mạnh của dân tộc 20 triệu người dân. Giờ đây, dân tộc Việt Nam đã là 90 triệu người và đội ngũ của Đảng đã gần 4 triệu đảng viên. Dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại luôn là niềm tự hào kiêu hãnh của nhân dân ta, của mỗi người chúng ta.
Đất nước đã vào Xuân. Xã hội đang chuyển mình từ truyền thống tới hiện đại. Dân tộc đang đứng trước vận hội mới để phát triển, dồi dào sinh lực sáng tạo. Con người Việt Nam, thế hệ tiếp nối thế hệ với học vấn, học thức ngày một nâng cao, lại đang sống trong môi trường đổi mới, hội nhập, đang xây dựng xã hội dân chủ và nhà nước pháp quyền, tiến tới văn minh và hiện đại, bằng tài năng, nhiệt huyết và trách nhiệm trước nhân dân và dân tộc, nhất định sẽ làm rạng rỡ trí tuệ, nhân cách Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội đã được toàn dân tin tưởng và tôn vinh, đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khẳng định địa vị pháp lý của Đảng cầm quyền. Phẩm chất xứng đáng của Đảng làm nên tính chính đáng và chính danh của Đảng trong thực thi trách nhiệm nặng nề, vẻ vang mà lịch sử giao phó và nhân dân ủy thác.
Đảng mạnh bởi có một Nhà nước mạnh và đặc biệt là có sức mạnh từ sự ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ của Nhân dân, sức mạnh trong lòng dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong giai đoạn phát triển mới hiện nay, Ý Đảng, Lòng dân, Phép nước càng phải được gắn kết mật thiết, keo sơn hơn nữa.
Sinh thời, Bác hằng quan tâm, lo lắng và làm hết sức mình để dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành, được chăm sóc sức khỏe, được tự do đi lại. Đó là những việc mà Người coi là cấp bách, thiết thực, phải làm ngay. Bác căn dặn, nhắc nhở chúng ta, dân chỉ biết đến tự do, dân chủ khi dân được ăn no, mặc đủ. Nước nhà giành được độc lập tự do mà dân vẫn đói rét, vẫn cực khổ, lạc hậu thì độc lập tự do cũng chẳng để làm gì. Dân là chủ và dân làm chủ thì Đảng và mỗi đảng viên là đầy tớ, công bộc trung thành tận tụy của dân. Công chức nhà nước mà đa số là đảng viên, làm việc trong bộ máy công quyền phải suốt đời "dĩ công vi thượng", phải tu dưỡng một lẽ sống "phục vụ nhân dân là phục tùng chân lý cao nhất" vì dân là quý nhất, dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân.
Tất cả vì hạnh phúc của nhân dân – có thể nói, đó là điều xác định cao quý, thiêng liêng mà Đảng đã nguyện phấn đấu hy sinh để thực hiện quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của dân - quyền con người, quyền công dân đã ghi trong Hiến pháp. Cũng với trách nhiệm cao cả đó, Thông điệp đầu năm mới 2014 của Thủ tướng Chính phủ đã đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của Dân, trọng trách của Nhà nước và Chính phủ trong việc phụng sự Tổ quốc và Nhân dân. "Đây là lúc chúng ta cần có thêm động lực để lấy lại đà tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững. Nguồn động lực đó phải đến từ đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân". "Nhà nước pháp quyền phải thượng tôn pháp luật. Pháp luật phải đảm bảo được công lý và lẽ phải. Nhà nước phải làm tốt chức năng kiến tạo phát triển”. Từ tinh thần ấy, Đảng Nhà nước, cán bộ đảng viên phải vì dân mà hành động, trước sau như một, mọi hoạt động, mọi hành động cũng chỉ vì dân, hướng đích tới dân.