Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
Trong 5 năm đầu cả nước bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, trên đất nước ta đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, được ghi đậm nét vào lịch sử vẻ vang của Đảng và của dân tộc. Nhân dân ta đã vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa.
Đây cũng chính là thời kỳ Đảng và nhân dân ta phải trải qua nhiều thách thức nghiêm trọng. Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của Đảng và Nhà nước phạm nhiều khuyết điểm. Xuất hiện tình hình khủng hoảng kinh tế - xã hội. Thực trạng đất nước đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường lối, chủ trương, chính sách, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm, định ra mục tiêu, nhiệm vụ, các biện pháp giải quyết đúng những vấn đề quan trọng cấp bách trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên.
Sau năm năm kể từ Đại hội lần thứ IV, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, họp từ ngày 27 đến ngày 31 tháng 3 năm 1982 tại Thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Trong số đại biểu đó có 14 đảng viên từng tham gia các tổ chức tiền thân của Đảng; 102 đại biểu hoạt động trong các cơ sở sản xuất công nghiệp; 118 đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số phía Bắc và Tây Nam; 79 đại biểu là anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, chiến sĩ thi đua; một phần ba số đại biểu có trình độ từ đại học trở lên, nhiều đại biểu là cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn học - nghệ thuật. Đến dự Đại hội có 47 đoàn đại biểu quốc tế.
Đồng chí Trường Chinh đọc lời khai mạc Đại hội. Đồng chí Lê Duẩn đọc Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Phạm Văn Đồng đọc Báo cáo về nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Đồng chí Lê Đức Thọ đọc Báo cáo về xây dựng Đảng. Nhiều đại biểu của Đại hội đã đọc tham luận, nhiều đại biểu quốc tế và trong nước đọc lời chào mừng.
Báo cáo chính trị đã đánh giá toàn diện những thắng lợi mà Đảng và nhân dân ta đã giành được trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc từ sau đại thắng mùa xuân 1975. Báo cáo khẳng định: Thành công rực rỡ của Đảng và nhân dân ta đã nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, triển khai thực hiện nhiều chính sách thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc; Thắng lợi trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đã bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, góp phần củng cố hoà bình và ổn định trong khu vực.
Báo cáo chính trị đã nêu bật những thành tựu trên các lĩnh vực. Trên mặt trận kinh tế chúng ta đã khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai gây ra, khôi phục và phát triển sản xuất, phân bố lại lao động xã hội, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở miền Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được những kết quả bước đầu, giai cấp tư sản mại bản bị xoá bỏ, một bộ phận công thương nghiệp tư bản đã được cải tạo, nông dân ở nhiều nơi tham gia tập đoàn sản xuất kể cả vào làm ăn tập thể. Trên mặt trận văn hoá, sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển, nạn mù chữ về cơ bản được thanh toán. Công cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển khai trong cả nước. Sự nghiệp văn học nghệ thuật đạt được một số tiến bộ. Công tác y tế, thể dục thể thao, có nhiều cố gắng vươn lên. Các ngành khoa học, kỹ thuật đã đáp ứng tốt một số yêu cầu của kinh tế và quốc phòng.
Báo cáo chính trị khẳng định: “Năm năm qua được ghi vào lịch sử dân tộc như một đoạn đường thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam”. Vượt qua muôn khó khăn chồng chất cách mạng nước ta đã phát triển lên một thế chiến lược mới, vững chắc hơn, tạo khả năng to lớn hơn để bảo vệ và xây dựng đất nước.
Trên cơ sở phân tích hiện trạng của đất nước, Báo cáo chính trị cũng vạch rõ những khó khăn yếu kém của nước ta trong quá trình phát triển. Về kinh tế, kết quả thực hiện các kế hoạch kinh tế trong 5 năm 1976-1980 chưa thu hẹp được những mặt cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển rất chậm trong khi dân số tăng nhanh, lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng không đủ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân lao động gặp rất nhiều khó khăn thiếu thốn. Mặt trận tư tưởng, văn hoá, giáo dục còn bị xem nhẹ, pháp chế xã hội chủ nghĩa chậm được tăng cường, pháp luật, kỷ luật bị buông lỏng.
Mặt khác, khó khăn còn do sai lầm, khuyết điểm của các cơ quan Đảng và Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở trong lãnh đạo quản lý kinh tế - xã hội của đất nước. Chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất; đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm đổi mới các chính sách chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu cơ sở.
Xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước, những biến động của tình hình quốc tế và những âm mưu của các thế lực thù địch chống lại Việt Nam, Báo cáo nêu rõ trong giai đoạn mới của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại có tăng cường phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Trong khi thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta phải đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Báo cáo chính trị của Đảng đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm 1981-1985 và những năm 80. Trong đó mục tiêu kinh tế - xã hội những năm 80 là: Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất dần dần ổn định, tiến tới cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, trang bị thêm thiết bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế chuẩn bị cho bước phát triển mạnh mẽ của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo; Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; Đáp ứng nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trật tự.
Báo cáo chính trị đã xác định những chính sách lớn về kinh tế - xã hội và nêu rõ: Trong 5 năm 1981-1985 chúng ta cần tập trung lực lượng thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
1. Giải quyết những vấn đề cấp bách nhất để ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân.
2. Phát triển và sắp xếp lại sản xuất, tiếp tục thực hiện việc phân công và phân bố lại lao động xã hội.
3. Bố trí lại xây dựng cơ bản cho phù hợp với khả năng và theo hướng tạo thêm điều kiện để phát huy các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có nhằm vào các mục tiêu cấp bách nhất về kinh tế và xã hội.
4. Cải tiến công tác phân phối lưu thông, thiết lập một bước trật tự mới trên mặt trận này.
5. Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước về các mặt chế độ sở hữu, quản lý, phân phối.
6. Làm tốt hợp tác kinh tế với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế.
7. Thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt, đặc biệt coi trọng tiết kiệm trong xây dựng cơ bản và sản xuất.
8. Làm tốt việc ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi thành tựu khoa học và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất và đời sống.
9. Đổi mới một bước hệ thống quản lý kinh tế.
10. Đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, y tế phù hợp với yêu cầu và khả năng kinh tế. Thực hiện cải cách giáo dục một cách tích cực và vững chắc. Xác định quy hoạch hợp lý và tiếp tục đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề.
11. Tăng cường quản lý xã hội, kiên quyết đấu tranh chống các hành vi phạm pháp, tệ nạn xã hội và các biểu hiện tiêu cực khác, đề cao kỷ cương trong quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, giữ vững trật tự và an toàn xã hội.
12. Bảo đảm các nhu cầu về kinh tế của công cuộc củng cố quốc phòng và an ninh, bảo vệ đất nước, đồng thời huy động năng lực công nghiệp quốc phòng và sử dụng hợp lý lực lượng quân đội vào những hoạt động kinh tế thích hợp.
Về những nhiệm vụ văn hoá, xã hội, Báo cáo chính trị nhấn mạnh việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới đã thu được nhiều thành tích. Nhưng cuộc đấu tranh giữa hai con đường trên lĩnh vực văn hoá, tư tưởng, lối sống diễn ra hết sức phức tạp. Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới là sự nghiệp mang nội dung toàn diện. Trong đó hệ thống giáo dục bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề, giáo dục đại học và trên đại học có tầm quan trọng hàng đầu. Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, văn hoá nghệ thuật giữ một vai trò cực kỳ quan trọng, Đảng và Nhà nước cần tăng cường quản lý, đồng thời ra sức phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hoá, văn nghệ đáp ứng đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng.
Về tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng, Báo cáo chính trị nêu rõ: Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo cuả Đảng. Tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cải tiến phương pháp lãnh đạo của các cấp uỷ đảng với chính quyền là điều kiện để phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước.
Về nâng cao sức chiến đấu của Đảng, Báo cáo chính trị nhấn mạnh: Hiện nay nhiệm vụ lịch sử mà Đảng phải gánh vác hết sức nặng nề. Cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đang diễn ra gay gắt và phức tạp. Các loại kẻ thù trong và ngoài nước tìm mọi cách phá hoại Đảng ta về tư tưởng, tổ chức. Vì vậy, công tác xây dựng Đảng càng có vị trí đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng mạnh mẽ về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; làm cho Đảng ta luôn luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật sự trong sạch, có sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
Trong công tác xây dựng Đảng, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm tăng cường công tác lý luận, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội. làm cho công tác lý luận, khoa học gắn chặt với nghiên cứu, xác định và phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đảng đã giành nhiều công sức xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước nhằm triển khai và hiện thực hoá chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong các hoạt động của thực tiễn cách mạng.
Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương.
Đại hội nghe Báo cáo phương hướng nhiệm vụ và những mục tiêu chủ yếu về kinh tế và xã hội trong 5 năm (1981-1985) và những năm 80 do đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trình bày.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương do đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị trình bày. Báo cáo phân tích những ưu điểm và nhược điểm trong công tác xây dựng Đảng và nhấn mạnh: “Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, Đảng ta đã có những ưu điểm rất cơ bản, đồng thời cũng bộc lộ những nhược điểm và khuyết điểm lớn cần ra sức khắc phục”. Báo cáo yêu cầu trong 5 năm tới phải đổi mới và tạo ra một chuyển biến sâu sắc và căn bản về công tác tư tưởng và công tác tổ chức của Đảng theo các yêu cầu sau đây:
Một là, bảo đảm thấu suốt đường lối nâng cao năng lực lãnh đạo và tổ chức về mọi mặt, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, nhất là về kinh tế.
Hai là, cải tiến sự lãnh đạo của Đảng gắn với việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế và việc tinh giản bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Ba là, củng cố cho được cơ sở đảng gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng huyện, quận, xã, phường… xây dựng các tổ chức sản xuất kinh doanh, các đơn vị chiến đấu và phát đông các phong trào quần chúng. Nâng cao sức chiến đấu của các cơ sở đảng, phát triển và củng cố đội ngũ của Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hoá biến chất và những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Bốn là, theo quy hoạch tiến hành đổi mới việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí đúng và bảo đảm tính kế thừa trong việc xây dựng đội ngũ cốt cán, ra sức xây dựng nâng cao phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, bảo đảm sự vững vàng của Đảng trong mọi tình thế.
Năm là, giữ gìn phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất của Đảng, thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tiến hành phê bình và tự phê bình thường xuyên trong sinh hoạt Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã thông qua Nghị quyết Báo cáo về xây dựng Đảng và những đề nghị cụ thể về bổ sung Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 uỷ viên chính thức và 36 uỷ viên dự khuyết.
Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết.
Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.