Hiện nay Việt Nam đang nhập khẩu khoảng 1.000 MW, từ Trung Quốc và Lào.Trong thời gian tới sẽ tăng cường nhập khẩu điện. Dự kiến sẽ mua thêm điện từ Trung Quốc và Lào khoảng 3.000 MW vào năm 2025 và 5.000 MW vào năm 2030.
Đa dạng hóa nguồn điện
Phát biểu tại buổi hội thảo, ông Lê Văn Lực - Phó Cục trưởng Cục năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) - cho biết: Tổng công suất các nguồn điện khí hiện nay khoảng trên 7.000 MW, sử dụng chủ yếu ở nguồn khí mỏ Nam Côn Sơn, Cửu Long ở Đông Nam Bộ và PM3, Cái Nước khu vực Tây Nam Bộ. Tuy nhiên trữ lượng các mỏ khí này bắt đầu suy giảm. Một số dự án đang chuẩn bị đầu tư sử dụng khí Lô B và mỏ Cá Voi Xanh có giá điện cao, nhiều khả năng chậm tiến độ. Thủ tục đầu tư nhiều bước, thu xếp vốn khó khăn, thời gian đàm phán phát triển mỏ kéo dài…
Ông Lê Văn Lực - Phó cục trưởng Cục năng lượng tái tạo (Bộ Công Thương) phát biểu tại buổi hội thảo |
Theo ông Lực, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong thực hiện chuỗi dự án, cần có mô hình quản lý, cơ chế phù hợp, hiệu quả cho chuỗi dự án. Giá điện cao phụ thuộc vào giá LNG, hiện tại khoảng 2.100 -2.300 đ/kWh với giá LNG khoảng 11 USD/triệu BTU. Nguồn LNG có thể nhập, giá phụ thuộc vào thị trường thế giới.
“Bộ Công Thương đang trình Thủ tướng Chính phủ khung giá mua điện từ Lào, để làm cơ sở đàm phán mua điện nhập khẩu. Tuy nhiên tiềm năng mua cũng hạn chế và giá điện khả năng phải tương đương giá khu vực” - Ông Lực chia sẻ.
Cùng với điện khí, tính đến tháng 4 năm 2019 có 13 dự án điện mặt trời (ĐMT), tổng khoảng 1000 MW vận hành. Trong đó có 332 dự án đề xuất bổ sung quy hoạch với tổng công suất khoảng 6.200 MW đến năm 2030. Đã duyệt 121 dự án tổng 9.400 MW, còn 211 dự án tổng 16.800 MW. Dự kiến công suất đạt được vào năm 2020 khoảng 6.500 MW, năm 2025 khoảng 20.000 MW, năm 2030 khoảng 30.500 MW.
Hiện nay, ĐMT vận hành không ổn định do phụ thuộc thời tiết. Do đó cần bổ sung nguồn dự phòng khi nguồn ĐMT dừng hoạt động. Do giá điện cao, hiện nay khoảng 2.150 đ/kWh nên cần tính toán kỹ lưỡng và có giải pháp phù hợp để đảm bảo hệ thống điện vận hành an toàn, ổn định khi tích hợp lượng công suất lớn ĐMT vào hệ thống.
Ông Lực cho rằng, trong giai đoạn 2020-2030 và những năm tiếp theo, để đảm bảo cung cấp điện ổn định, phù hợp cho nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đất nước cần phải phát triển triển các dự án nguồn điện gồm: nhiệt điện than, nhiệt điện khí, năng lượng tái tạo, nhập khẩu điện, với tỷ lệ các lợi nguồn thích hợp, đảm bảo các mục tiêu chủ yếu như đã đề ra trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia. Bên cạnh đó, cần phát huy mọi nguồn lực trong nước và hỗ trợ từ quốc tế để phát triển hệ thống điện, đảm bảo cấp đủ điện cho phát triển kinh tế, xã hội đất nước.
PGS.TS. Trần Đình Thiên - nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam chia sẻ thêm, so mức trung bình thế giới, tiêu thụ năng lượng Việt Nam chỉ bằng khoảng 30-35%, tiêu thụ điện chỉ khoảng 60%. So với khu vực, Việt Nam còn thấp hơn nhiều. Tuy nhiên, về mặt chiến lược, vấn đề sử dụng bền vững và hiệu quả năng lượng mới là điều cần được dành sự quan tâm đặc biệt.
PGS.TS. Trần Đình Thiên phát biểu tại hội thảo |
Trong thời gian tới, ông Thiên cho rằng cần có một cách tiếp cận mới trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0 và nhu cầu sử dụng năng lượng. Điều chỉnh chiến lược phát triển năng lượng điện cả phía cung lẫn phía cầu, trên căn bản giá cả - thị trường điều tiết. Phải cải cách lương sớm, xác lập cân bằng giá cả “chính trị - kinh tế”. Điều này theo ông Thiên, có nghĩa là mỗi vấn đề đều phải có kế hoạch, chiến lược cụ thể, kế hoạch rõ ràng.
“Tư duy hiện đại hóa phải chi phối thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghệ cao, đô thị hóa và định hướng đô thị thông minh. Năng lượng tái tạo với các bước đi bảo đảm sự bền vững năng lượng và môi trường, dựa nhiều vào khu vực tư nhân và tuân thủ nguyên tắc thị trường cạnh tranh và công khai – minh bạch” - ông Thiên nhấn mạnh.
Cần "ưu tiên" cho nhiệt điện than
Ông Trương Duy Nghĩa - Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Nhiệt Việt Nam cho rằng, bất kỳ quốc gia nào cũng phải trải qua 3 giai đoạn phát triển điện năng. Cụ thể, giai đoạn 1 là không phát triển. Ở giai đoạn này, tổng sản lượng điện quốc gia bé, thiếu điện trầm trọng; Điện năng theo đầu người rất thấp. Giai đoạn 2 là phát triển rất nhanh, tăng trưởng > 10 %/năm và ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển kinh tế. Giai đoạn 3, bão hòa nhu cầu điện, tốc độ tăng trưởng khoảng 1%/năm.
Ông Trương Duy Nghĩa - Chủ tịch Hội Khoa học Kỹ thuật Nhiệt Việt Nam phát biểu tại buổi hội thảo |
Theo ông Nghĩa, Việt Nam đang ở giai đoạn 2 về phát triển điện năng, nhu cầu điện năng rất lớn, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển kinh tế. Nhiệt điện than vẫn là nguồn phát điện hợp lý nhất, hiệu quả nhất để đáp ứng nhu cầu điện năng rất lớn của đất nước. Nhiệt điện than cũng là loại nhà máy có công nghệ xử lý môi trường tốt nhất và tốn kém nhất trong các loại nhà máy công nghiệp sử dụng than và luôn phải đạt các quy chuẩn quản lý môi trường của quốc gia.
Trong điều kiện Việt Nam, thủy điện đã khai thác triệt để, tới giới hạn, nhiệt điện khí có giá điện đắt, điện hạt nhân đã lui, điện mặt trời, điện gió phụ thuộc vào thời tiết, cần có nguồn điện dự trữ khi tắt nắng, tắt gió. Vì vậy phát triển điện gió, điện mặt trời phải căn cứ khả năng dự trữ của hệ thống điện quốc gia, nghĩa là không thể tăng với tỷ lệ quá lớn được. Nếu không phát triển nhiệt điện than thì sẽ dẫn tới thiếu điện trầm trọng, thậm chí phải cắt điện.
Nhiệt điện than cũng là loại nhà máy có công nghệ xử lý môi trường tốt nhất |
Ông Nghĩa cho rằng, từ nay đến 2030, Việt Nam cần khoảng 300 tỷ kWh, 30 tỷ kWh/năm, tương đương khoảng 4-5 nhà máy điện có sản lượng 1.200kWh. Tuy nhiên, khả năng đáp ứng của các nhà máy thuỷ điện lớn đã hết, điện khí thì giá thành đắt gấp 2 lần nhiệt điện than. Còn điện hạt nhân đã lùi thời hạn xây dựng, điện tái tạo (mặt trời, gió) có công suất có thể lớn nhưng sản lượng bé. Do vậy nguồn duy nhất đáp ứng tốt là nhiệt điện than.