Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, Dự thảo Nghị định về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay do Bộ Giao thông Vận tải đang soạn thảo còn có một số nội dung, qui định chưa đảm bảo yếu tố minh bạch, cụ thể, rõ ràng.
Thứ nhất, về quy hoạch cảng hàng không do chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng lập, tại Khoản 7, Điều 18 Dự thảo quy định, trình tự thủ tục phê duyệt quy hoạch tỷ lệ 1/500 do chủ đầu tư dự án đầu tư xây dựng tổ chức lập. VCCI cho rằng, quy định này không rõ ở điểm quy hoạch do chủ đầu tư dự án đầu tư lập có nằm trong quy hoạch do Cục Hàng không lập, Bộ Giao thông Vận tải phê duyệt theo quy định từ khoản 1 đến khoản 6, Điều 18 Dự thảo hay không? Hay là quy hoạch này nằm ngoài quy hoạch do Bộ phê duyệt? Đất giao cho chủ đầu tư có nằm trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh do Bộ Giao thông Vận tải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền không? Trong khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất này lại căn cứ vào quy hoạch cảng hàng không, sân bay trừ quy hoạch tỷ lệ 1/500. Do vậy, Ban soạn thảo cần giải trình, làm rõ những vấn đề vừa nêu để đảm bảo tính minh bạch.
Ảnh minh họa |
Thứ hai, về Hội đồng thẩm định quy hoạch: Điều 19, Dự thảo quy định về Hội đồng thẩm định quy hoạch cảng hàng không, sân bay, nhưng lại không quy định rõ về hội đồng này số lượng thành viên bao nhiêu, quyết định theo chế độ tập thể có nghĩa thế nào (số đồng ý quá bán, theo một tỷ lệ nào đó, hay là 100%...), những trường hợp nào thì hội đồng thẩm định sẽ lựa chọn tư vấn phản biện độc lập? Để đảm bảo thuận lợi khi áp dụng, cần quy định rõ ràng, cụ thể vấn đề này.
Thứ ba, về thủ tục giao đất cho các công trình đang khai thác: Khoản 5, Điều 27, Dự thảo quy định, đối với các công trình hiện hữu đã và đang khai thác, sử dụng ổn định, không có tranh chấp nhưng không có giấy tờ quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 27 Dự thảo, thì “có trách nhiệm đo đạc bản đồ địa chính hiện trạng sử dụng đất để làm căn cứ hoàn thiện hồ sơ đề nghị giao đất thay thế cho các loại giấy tờ như văn bản chấp thuận chủ trương đầu tư, hoặc văn bản chấp thuận đầu tư, hoặc giấy chứng nhận đăng ký đầu tư”.
VCCI đặt câu hỏi: Quy định này có được hiểu là tổ chức đã và đang khai thác, sử dụng ổn định các công trình hiện hữu phải thực hiện lại thủ tục xin giao đất quy định từ khoản 1 đến khoản 4, Điều 27 của Dự thảo, kể cả trong trường hợp thời hạn giao đất trước đó vẫn còn hoặc đã được giao đất sử dụng ổn định, lâu dài hay không? Nếu được hiểu theo cách này, sẽ làm gia tăng thủ tục và tạo ra rủi ro cho các tổ chức đã và đang sử dụng đất ổn định lâu dài, vì họ sẽ có nguy cơ bị từ chối không được giao đất. Do vậy, VCCI kiến nghị, Ban soạn thảo quy định rõ vấn đề này và điều chỉnh theo hướng các tổ chức này có trách nhiệm đo đạc bản đồ địa chính hiện trạng sử dụng đất, cung cấp cho cơ quan có thẩm quyền để ghi nhận việc sử dụng đất hiện tại để có các biện pháp quản lý. Hoặc trong trường hợp đã hết thời hạn giao đất trước đó, các tổ chức này phải thực hiện lại thủ tục xin giao đất và quy định này giải quyết cho trường hợp không có giấy tờ quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 27.
Ngoài ra, VCCI còn cho rằng, một số qui định về các trường hợp giấy phép kinh doanh cảng hàng không bị hủy bỏ hiệu lực tại Khoản 7, Điều 51, có một số điểm chưa phù hợp, cụ thể: Dự thảo chưa qui định rõ như thế nào được cho là “vi phạm nghiêm trọng” các quy định của pháp luật về an ninh, quốc phòng; các quy định về bảo đảm an ninh hàng không, an toàn hàng không, điều kiện kinh doanh, giá dịch vụ, phòng cháy, chữa cháy, bảo vệ môi trường?