Việt Nam là quốc gia đất chật người đông, do đất nước trải dài có nhiều vùng khí hậu khác nhau nên có nhiều sản phẩm nông sản theo các mùa vụ khác nhau. Chúng ta có nông sản vùng nhiệt đới, nông sản vùng cận nhiệt đới và 1 phần của ôn đới ở các độ cao khác nhau so với mặt nước biển. Từ năm 2000 đến nay, nhiều loại nông sản Việt Nam được xếp hạng top 10 trên thế giới. Như gạo đứng thứ 2 thế giới. Nhiều thập kỷ đã coi đồng bằng Nam bộ là bát cơm của châu Á "Rice Bowl of Asia". Hạt tiêu và hạt điều đứng đầu thế giới về sản lượng. Cà phê hơn 10 năm nay luôn giữ vị trí nước sản xuất cà phê vối (robusta) đứng đầu và tổng tất cả các loại cà phê đứng thứ 2 trên thế giới sau Brasil.
Thanh long - mặt hàng đang có lợi thế xuất khẩu |
Còn nhớ, phát biểu trong buổi gặp mặt 10 đại sứ các nước Mỹ La tinh tại quán ăn MeKong bên bờ hồ Lake của Thụy Sĩ để vận động họ ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO, ông Đại sứ - Trưởng đoàn ngoại giao các nước Mỹ La tinh - đã nói: "Chúng tôi biết đến Việt Nam là nước thắng trong cuộc chiến tranh chống xâm lược. Thứ nữa là cà phê Việt Nam tràn ngập thị trường làm chúng tôi khó khăn". Câu chuyện diễn ra từ năm 2004, ngành cà phê tuy gặp rất nhiều thách thức do biến đổi khí hậu, cà phê già phải đầu tư trồng lại, cạnh tranh gay gắt của thị trường quốc tế, song chúng ta vẫn giữ vững vị trí thứ 2 và chiếm lĩnh tới gần 20% thị phần thế giới.
Điểm yếu của ngành nông sản Việt Nam là phần lớn xuất thô. Nguyên nhân có nhiều, song nguyên nhân chính là công nghiệp chế biến của chúng ta chưa phát triển. Sự kết hợp giữa xuất khẩu hàng hóa với các phương tiện vận tải còn kém. Chi phí logistic, đặc biệt đối với vận tải hàng tươi sống, còn quá cao và không đồng bộ. Bên cạnh đó, các nước nhập khẩu coi sản phẩm nông sản như cà phê, hạt tiêu, hạt điều là nguyên liệu. Họ bảo hộ khâu chế biến, khâu giá trị gia tăng cao và đánh thuế cao cho những nông sản chế biến nhập khẩu vào nước họ. Ví dụ, cà phê rang xay, hòa tan nhập vào các nước nhập khẩu từ 7 - 25%, thậm chí như Đức đánh thuế Excise tax lên đến 2 Euro/ kg cà phê rang. Tham gia Hiệp định CPTPP mới giải mã được câu chuyện bảo hộ công nghiệp chế biến hàng nông sản của các nước và mở cửa thị trường cho hàng nông sản chế biến của chúng ta. Theo Hiệp định này sẽ dỡ bỏ hàng rào thuế quan theo lộ trình đưa mức thuế nhập khẩu hàng nông sản chế biến hầu hết xuống 0 - 5%.
Trong bối cảnh chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa bảo hộ xuất hiện trở lại gây tác động lớn đến thương mại và phát triển kinh tế, việc thực hiện các cam kết mới về mở cửa thị trường nông sản trong CPTPP càng có ý nghĩa quan trọng. 11 nước CPTPP là một thị trường lớn chiếm trên 10% GDP toàn cầu sẽ là thị trường tiêu thụ nhiều sản phẩm nông sản của Việt Nam.
Để tận dụng cơ hội, đối với những mặt hàng nông sản đã có số lượng lớn như gạo, cà phê, hồ tiêu và hạt điều, cần tập trung vào đầu tư chế biến nâng cao giá trị gia tăng, giảm dần xuất khẩu thô. Theo tính toán của các doanh nghiệp, xuất khẩu cà phê rang xay giá trị gấp đôi so với xuất khẩu cà phê nhân. Xuất khẩu cà phê hòa tan 3 trong 1 giá trị có thể gấp ba lần. Hạt điều chế biến giá trị cũng gấp đôi, giá gạo hấp cũng gấp đôi giá gạo thường…
Mặt hàng rau, hoa quả nhiệt đới và cận nhiệt đới là lợi thế của Việt Nam so với các nước khác nhau trong CPTPP, cần tập trung vùng chuyên trồng các loại cây hoa, quả, rau quy mô lớn, áp dụng công nghệ tiên tiến, tuân thủ quy trình sản xuất an toàn từ đồng ruộng đến bàn ăn với sản lượng lớn - mới đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Tổ chức vận tải chuyên dụng giá cạnh tranh. Những mặt hàng đang có lợi thế như thanh long, chanh leo, vải thiều, hoa Đà Lạt cần tăng nhanh sản lượng. Những mặt hàng có lợi thế đất đai, khí hậu, các nước CPTPP có nhu cầu cần nghiên cứu toàn diện tất cả các khâu từ giống, công nghệ, vận tải, bảo quản bao bì đóng gói, giá thành cạnh tranh để có chiến lược phát triển lâu dài.
Sản phẩm gạo Việt Nam ngày càng đa dạng, chất lượng được nâng cao |
Khâu hỗ trợ của nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp trong xây dựng thương hiệu quảng bá sản phẩm và xúc tiến thương mại cũng cần được chú trọng, bởi hiện nay đầu tư còn khiêm tốn và manh mún nên chưa góp phần đẩy mạnh việc bán hàng cả trong và ngoài nước, chưa có nhiều thương hiệu cho các ngành hàng của Việt Nam.
Việt Nam vừa công bố logo của gạo Việt Nam, đây là kết quả bước đầu, cần quảng bá thường xuyên đi theo chất lượng hàng mới được thế giới công nhận và nâng cao giá trị. Ngành cà phê, hồ tiêu và điều cũng phải sớm xây dựng và công bố thương hiệu quốc gia đi đôi với việc giới thiệu chỉ dẫn địa lý đặc trưng sản phẩm của vùng miền gắn với chất lượng.
Thời cơ đã đến, đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng vượt bậc, xây dựng các chiến lược, sách lược đầu tư lâu dài để tận dụng mọi cơ hội…