Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1894/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển ngành công nghiệp môi trường Việt Nam giai đoạn 2025–2030, đặt mục tiêu đưa công nghiệp môi trường (CNMT) trở thành một ngành kinh tế độc lập, có sức cạnh tranh và đóng góp vào GDP quốc gia.
Phóng viên Báo Công Thương có cuộc trao đổi với TS. Trịnh Xuân Đức – Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Hạ tầng và Môi trường (SIIEE) xung quanh nội dung này.
Hoàn thiện thể chế, tạo nền móng cho ngành công nghiệp môi trường
-Thưa ông, để ngành công nghiệp môi trường trở thành một ngành kinh tế độc lập theo Quyết định 1894/QĐ-TTg, Việt Nam cần thực hiện những bước đi nào?
TS Trịnh Xuân Đức: Theo tôi, muốn đưa công nghiệp môi trường (CNMT) thành ngành kinh tế độc lập, chúng ta phải hành động trên bốn trục chính.

TS Trịnh Xuân Đức - Viện trưởng SIIEE. Ảnh: Nguyễn Mạnh
Thứ nhất là thể chế: Cần hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn bắt buộc áp dụng cho sản phẩm, thiết bị, dịch vụ công nghiệp môi trường. Đây là nền móng để định hình thị trường.
Thứ hai là thị trường: Tạo động lực cho doanh nghiệp trong nước thông qua cơ chế đặt hàng công, khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng và thương mại hóa công nghệ môi trường, mở rộng xúc tiến thương mại quốc tế.
Thứ ba là hệ sinh thái đổi mới sáng tạo:Hình thành chuỗi “doanh nghiệp – cơ quan nghiên cứu – cơ sở giáo dục – cơ quan quản lý - tổ chức quốc tế”, trong đó doanh nghiệp giữ vai trò trung tâm, các viện nghiên cứu và trường học cung cấp nghiên cứu, còn Nhà nước tạo không gian thể chế.
Cuối cùng là tài chính, đầu tư: Phát triển tín dụng xanh, ưu đãi thuế cho dự án công nghiệp môi trường, thu hút mạnh mẽ FDI vào các phân ngành mũi nhọn như tái chế, xử lý chất thải, năng lượng từ chất thải.
Ba trụ cột hình thành ngành công nghiệp môi trường độc lập
-Ông có thể chỉ rõ những lĩnh vực nào sẽ trở thành trụ cột để hình thành ngành công nghiệp môi trường độc lập?
Trịnh Xuân Đức: Tôi hoàn toàn đồng tình với Quyết định 1894/QĐ-TTg. Tuy nhiên, để ngành công nghiệp môi trường thực sự trở thành một ngành kinh tế độc lập, theo tôi cần tập trung vào ba trụ cột chính.
Thứ nhất, công nghệ tái chế và năng lượng từ chất thải, trong đó trọng tâm là làm chủ công nghệ lõi và sản xuất thiết bị trong nước. Với hơn 65.000 tấn rác sinh hoạt mỗi ngày, nếu 30–40% được tái chế hoặc chuyển hóa thành năng lượng, Việt Nam có thể tạo ra 1–1,5 tỷ kWh điện sạch mỗi năm.
Thứ hai, phát triển kinh tế tuần hoàn, giúp công nghiệp môi trường trở thành một phần của chuỗi giá trị sản xuất – từ tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp, bùn thải, nhựa tái chế đến vật liệu xây dựng xanh, qua đó hình thành các mô hình kinh doanh bền vững gắn với tăng trưởng xanh và giảm phát thải ròng.
Thứ ba, xuất khẩu công nghệ và thiết bị. Khi làm chủ công nghệ xử lý nước, khí, chất thải và quan trắc, Việt Nam có thể trở thành trung tâm cung ứng công nghệ môi trường cho ASEAN, Nam Á và châu Phi. Nếu đạt kim ngạch xuất khẩu 1–2 tỷ USD/năm, ngành không chỉ cân bằng cán cân thương mại mà còn nâng vị thế Việt Nam trên bản đồ công nghệ xanh toàn cầu.

Hiện nhiều doanh nghiệp trong nước đang từng bước làm chủ công nghệ xử lý môi trường . Ảnh: Đình Trọng
Khi phát triển đồng bộ ba trụ cột này, ngành công nghiệp môi trường Việt Nam có thể đạt quy mô 10–12 tỷ USD vào năm 2030, đóng góp 2–3% GDP, tạo hàng chục nghìn việc làm kỹ thuật cao và trở thành động lực giúp Việt Nam tiến gần hơn tới mục tiêu Net Zero 2050.
Động lực thúc đẩy phát triển bền vững
-Theo ông, đâu là động lực chính giúp ngành công nghiệp môi trường có thể cạnh tranh và đứng vững như một ngành kinh tế?
Trịnh Xuân Đức: Tôi cho rằng cũng có ba động lực then chốt.
Trước hết là nhu cầu thị trường nội địa: Chỉ tính riêng nhu cầu xử lý nước thải đô thị và công nghiệp đến 2030, Việt Nam sẽ phải đầu tư khoảng 6–8 tỷ USD. Thị trường xử lý chất thải rắn đô thị ước đạt 4–5 tỷ USD/năm. Đây là “đòn bẩy tự nhiên” để ngành CNMT phát triển.
Tiếp theo về áp lực pháp lý: Luật Bảo vệ môi trường 2020 và hệ thống quy chuẩn mới buộc doanh nghiệp phải đầu tư công nghệ, từ đó tạo thị trường bắt buộc.
Cuối cùng là đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu bằng việc tự chủ công nghệ, sản xuất thiết bị, dịch vụ vận hành theo chuẩn quốc tế.
Thu hút công nghệ, tạo chuỗi giá trị xanh
-Trong bối cảnh Việt Nam tham gia nhiều FTA thế hệ mới, ông nhìn nhận cơ hội nào cho ngành công nghiệp môi trường để kết nối thị trường quốc tế?
TS Trịnh Xuân Đức: Theo tôi các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA mở ra hai cơ hội lớn.
Đầu tiên khi Việt Nam xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn tương thích quốc tế, sản phẩm và dịch vụ công nghiệp môi trường của ta đủ điều kiện tiếp cận thị trường quốc tế. Từ đó doanh nghiệp Việt có thể xuất khẩu không chỉ thiết bị xử lý nước, khí mà cả gói dịch vụ như vận hành, bảo trì, nâng cấp theo chuẩn quốc tế. Đây chính là lợi thế so sánh mới, bởi nhu cầu nâng cấp, cải tiến (retrofit) công nghệ xanh đang tăng mạnh ở khu vực ASEAN và châu Phi.

Một góc nhà máy Nhựa tái chế Duy Tân. Ảnh: DT
Việt Nam là thị trường cực kỳ hấp dẫn cho FDI. Với quy mô dân số hơn 100 triệu, tốc độ đô thị hóa cao và cam kết phát thải ròng bằng “0” vào 2050, chúng ta cần đầu tư công nghệ môi trường hàng chục tỷ USD. Nhu cầu này tạo cơ hội cho các tập đoàn quốc tế đầu tư vào Việt Nam để sản xuất thiết bị, xây dựng nhà máy xử lý, và đặt trung tâm R&D.
Tôi dự báo, nếu có cơ chế ưu đãi rõ ràng, đến năm 2030, tổng vốn FDI vào CNMT có thể đạt 8–10 tỷ USD, đóng góp khoảng 1,5–2% GDP.
Hướng tới tự chủ công nghệ xanh
-Nếu đến năm 2030, ngành công nghiệp môi trường thực sự trở thành một ngành kinh tế độc lập, diện mạo nền kinh tế Việt Nam sẽ thay đổi như thế nào, thưa ông?
Trịnh Xuân Đức: Tôi tin rằng ngành công nghiệp môi trường sẽ phát triển chuyên nghiệp và thịnh vượng.
Nếu triển khai đồng bộ Chương trình 1894/QĐ-TTg, đến năm 2030, quy mô thị trường nội địa có thể đạt 8–10 tỷ USD/năm, tự chủ 60–70% thiết bị, công nghệ trong nước và xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD/năm sang ASEAN, Nam Á, châu Phi. Ngành này sẽ đóng góp ổn định 2–3% GDP, tạo hàng chục nghìn việc làm kỹ thuật, thúc đẩy cơ khí, vật liệu mới, năng lượng tái tạo và công nghệ số.
Quan trọng hơn, sự ra đời của ngành công nghiệp môi trường độc lập sẽ giúp Việt Nam giảm nhập khẩu công nghệ, tăng năng lực tự chủ và tiến gần hơn tới mục tiêu tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn và phát thải ròng bằng “0”.
Xin trân trọng cảm ơn ông!