Công nghệ giải bài toán tiết kiệm năng lượng trong khai khoáng

Việc tăng cường tiết kiệm năng lượng giúp doanh nghiệp khai khoáng giảm chi phí, nâng sức cạnh tranh và hướng tới phát triển bền vững.

Trong bối cảnh chi phí đầu vào ngày càng biến động, sức ép thị trường và tiêu chuẩn xanh của các chuỗi cung ứng toàn cầu, bài toán sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả đang trở thành "chìa khóa" sống còn với doanh nghiệp khai khoáng. Phóng viên Báo Công Thương đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Anh Dũng, Chuyên gia chuyển đổi năng lượng của Quỹ Châu Á (The Asia Foundation) xung quanh vấn đề này..

Vai trò then chốt của tiết kiệm năng lượng trong ngành khai khoáng

- Thưa ông, ông đánh giá thế nào về vai trò của tiết kiệm năng lượng đối với nền kinh tế – xã hội nói chung và riêng trong các doanh nghiệp khai khoáng?

Ông Nguyễn Anh Dũng: Tiết kiệm năng lượng có ý nghĩa sống còn với phát triển kinh tế – xã hội. Ở tầm vĩ mô, nó giúp giảm áp lực lên hệ thống cung ứng, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, đồng thời góp phần giảm phát thải khí nhà kính, hướng tới mục tiêu trung hòa carbon mà Việt Nam đã cam kết tại COP26.

Với doanh nghiệp, đặc biệt là ngành khai khoáng, lĩnh vực vốn tiêu thụ năng lượng rất lớn, việc tiết kiệm mang lại hai lợi ích rõ rệt. Đầu tiên là việc giảm chi phí sản xuất, bởi năng lượng thường chiếm từ 15–20% tổng chi phí vận hành. Việc tiết kiệm năng lượng cũng đồng nghĩa với tối ưu hóa quy trình, tăng năng suất và hiệu quả khai thác.

Ông Nguyễn Anh Dũng, Chuyên gia chuyển đổi năng lượng của Quỹ Châu Á (The Asia Foundation). Ảnh: Phong Lâm

Ông Nguyễn Anh Dũng, Chuyên gia chuyển đổi năng lượng của Quỹ Châu Á (The Asia Foundation). Ảnh: Phong Lâm

- Xin ông cho biết, trong công nghiệp khai khoáng, hiện doanh nghiệp đang áp dụng những công nghệ nào để tiết kiệm năng lượng?

Ông Nguyễn Anh Dũng: Tại Công ty Than Hòn Gai, để tiết kiệm năng lượng, giảm bớt chi phí trong sản xuất, đầu tiên, công ty đã áp dụng một loạt các giải pháp kỹ thuật đơn giản. Cụ thể, riêng trong khâu chiếu sáng, công ty đã thay toàn bộ các bóng đèn sợi đốt 50-100W bằng bóng đèn Compact 20W; các bóng đèn cao áp 400W bằng bóng Compact 75W, sử dụng ballast điện tử…

Bên cạnh đó, để tiết kiệm năng lượng cho động cơ, công ty đã tiến hành lắp đặt tụ bù đến gần phụ tải; lắp biến tần và khởi động mềm, Powerboss cho các động cơ có công suất trên 30 kW (cho các tuyến băng tải, sang rung….).

Công ty đã quản lý điều hành trạng thái hoạt động của hệ thống thiết bị trong dây chuyền sản xuất của các động cơ trên hệ thống điều khiển SCADA; Phát hiện hiện tượng bất thường trên từng cụm tải, ví dụ, khi dòng điện tăng đột ngột… thông qua việc giám sát trên các HMI hoặc cảnh báo phát ra từ hệ thống.

Bằng tất cả những giải pháp này, năng lượng tiết kiệm được của toàn công ty là 1.196 TOE/năm, tương đương chi phí tiết kiệm gần 50 tỷ đồng/năm, giảm phát thải 2.320 tấn CO2/năm. Suất tiêu hao năng lượng toàn công ty đã giảm từ mức 7,64 kWh điện và 0,378 lít dầu/tấn than năm 2010 xuống còn 7,27 kWh điện và 0,341 lít/tấn than năm 2011.

Còn tại Công ty Cổ phần Than Hà Tu hiện đang vận hành 12 máy khoan xoay cầu với sản lượng điện tiêu thụ lớn nhất mỏ (gần 5,6 triệu kWh). Để vừa tiết kiệm điện vừa đảm bảo năng suất, sản lượng, Than Hà Tu đã thay thế biến tần khởi động mềm cho động cơ khoan và thay máy cắt điện cầu dao dầu sang máy cắt điện chân không rơ le kỹ thuật số tại tủ điện 6kV. Do đó, 1 mét khoan của máy giờ đây chỉ sử dụng hết 0,3 kWh điện, giảm một nửa so với thời gian trước. Nhờ các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, trung bình mỗi năm, Than Hà Tu tiết kiệm được khoảng 5 tỷ đồng tiền điện. 

- Theo ông, để nâng cao hiệu quả tiết kiệm năng lượng, các doanh nghiệp khai khoáng Việt Nam cần thực hiện những giải pháp gì trong thời gian tới?

Ông Nguyễn Anh Dũng: Tôi cho rằng phải đi theo hướng đồng bộ, vừa công nghệ, vừa quản lý, vừa chính sách.

Về công nghệ, các doanh nghiệp nên mạnh dạn đầu tư hệ thống quản lý năng lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, điển hình là ISO 50001. Nhờ đó, toàn bộ quy trình khai thác, chế biến, vận hành đều được kiểm soát, đo lường và cải tiến liên tục. Cùng với đó, ứng dụng năng lượng tái tạo tại chỗ, chẳng hạn điện mặt trời áp mái tại các khu vực mỏ, không chỉ giảm phụ thuộc lưới điện mà còn góp phần cắt giảm chi phí dài hạn.

Về chính sách, cần có thêm cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khai khoáng trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng xanh, ưu đãi thuế cho các dự án tiết kiệm năng lượng. Đây là động lực để họ dám đầu tư, bởi chi phí ban đầu cho công nghệ hiện đại thường khá cao.

Một khía cạnh quan trọng khác là đào tạo nguồn nhân lực. Doanh nghiệp cần có cán bộ quản lý năng lượng chuyên trách, được đào tạo bài bản về kiểm toán năng lượng, phân tích tài chính và công nghệ mới. Khi đội ngũ đủ năng lực, doanh nghiệp mới có thể biến chiến lược thành hành động cụ thể.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh yếu tố hợp tác quốc tế. Việt Nam nên tăng cường trao đổi, học hỏi công nghệ từ các quốc gia tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc, EU… để rút ngắn khoảng cách và nhanh chóng hình thành chuỗi giá trị khoáng sản xanh. Đây sẽ là con đường bền vững, vừa bảo vệ tài nguyên, vừa đảm bảo lợi ích kinh tế dài hạn.

Tiết kiệm năng lượng đang được xem là một giải pháp đặc biệt quan trọng giúp doanh nghiệp tối ưu hoá chi phí sản xuất, giảm phát thải và gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Phong Lâm
Bình luận

Có thể bạn quan tâm